TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN TRỤ, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 61/2022/DS-ST NGÀY 27/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN THỨC ĂN GIA SÚC
Ngày 18 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Trụ, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 103/2022/TLST-DS ngày 08 tháng 6 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán thức ăn gia súc” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 81/2022/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Chu Thị P, sinh năm 1961.
Địa chỉ cư trú: Số X, Ấp Y, xã LT, huyện T, tỉnh LA.
Là chủ hộ kinh doanh BH theo giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số 50L8000137, đăng ký lần đầu ngày 12/02/2007, đăng ký thay đổi lần thứ 4 ngày 19/10/2021 Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Võ TQ, sinh năm 1967.
Địa chỉ: Khu phố BH, thị trấn T, huyện T, tỉnh Long An.
2. Bị đơn: Ông Hồ Văn P1, sinh năm 1983.
Địa chỉ cư trú: Số Z, Ấp J, xã LT, huyện T, tỉnh LA.
(Bà TQ, ông P1 đều có đơn xin vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 20/4/2022, trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên toà, nguyên đơn do bà Võ TQ đại diện trình bày:
Bà Chu Thị P là chủ Hộ kinh doanh BH, địa điểm kinh doanh tại Số 224/5, Ấp 5, xã Quê Mỹ Thạnh, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An theo giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số 50L8000137, đăng ký lần đầu ngày 12/02/2007, đăng ký thay đổi lần thứ 4 ngày 19/10/2021. Ngành nghề kinh doanh bao gồm: Thức ăn gia súc, gia cầm, thức ăn thủy sản, chăn nuôi. Vào năm 2021, ông Hồ Văn P1 có mua thức ăn gia súc tại cửa hàng BH, đến ngày 22/02/2022, ông P1 và bà P chốt nợ, ông P1 còn nợ tiền mua thức ăn gia súc là 19.980.000 đồng đến nay vẫn chưa trả cho bà P. Vì vậy, bà P làm đơn khởi kiện yêu cầu ông Hồ Văn P1 phải trả cho bà P số tiền mua bán thức ăn gia súc còn nợ là 19.980.000 đồng và không yêu cầu trả tiền lãi chậm trả.
Bị đơn ông Hồ Văn P1 có đơn xin vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng và không có ý kiến phản đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và cũng không có yêu cầu phản tố.
Vụ án đã được Tòa án tiến hành công khai chứng cứ và không tiến hành hòa giải được vì đại diện nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải. Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn và bị đơn đều có đơn xin xét xử vắng mặt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Chu Thị P là chủ Hộ kinh doanh BH khởi kiện yêu cầu ông Hồ Văn P1 trả tiền nợ mua thức ăn gia súc, bị đơn ông Hồ Văn P1 hiện đang cư trú tại xã LT, huyện T, tỉnh LA. Vì vậy, quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này được xác định là tranh chấp hợp đồng mua bán thức ăn gia súc thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Tân Trụ, tỉnh Long An quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được do đại diện nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án theo quy định tại khoản 4 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và không tiến hành hòa giải theo quy định tại khoản 2 Điều 208 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, bị đơn đều có đơn xin xét xử vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả người tham gia tố tụng theo quy định tại khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, thấy rằng: Vào năm 2021, ông Hồ Văn P1 và Hộ kinh doanh BH do bà Chu Thị P là chủ hộ có thỏa thuận giao dịch dân sự về mua bán thức ăn gia súc, thuộc ngành, nghề kinh doanh của Hộ kinh doanh BH theo giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số 50L8000137, đăng ký lần đầu ngày 12/02/2007, đăng ký thay đổi lần thứ 4 ngày 19/10/2021. Vì vậy, giao dịch dân sự mua bán thức ăn gia súc giữa nguyên đơn và bị đơn là hợp pháp và được điều chỉnh theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015. Nguyên đơn khởi kiện và cung cấp sổ ghi tiền nợ mua bán thức ăn gia súc của ông P1 tính đến ngày chốt nợ là ngày 22/01/2022 thì ông P1 còn nợ số tiền 19.980.000 đồng. Bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng thể hiện yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhưng bị đơn không có yêu cầu phản tố và không có ý kiến phản đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên đây là tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự. Vì ông Hồ Văn P1 đã vi phạm nghĩa vụ trả tiền quy định tại Điều 440 của Bộ luật Dân sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử buộc ông P1 có nghĩa vụ trả cho bà Chu Thị P là chủ Hộ kinh doanh BH số tiền mua thức ăn gia súc còn nợ là 19.980.000 đồng.
[4] Về án phí: Ông Hồ Văn P1 phải chịu 999.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền phải thanh toán cho nguyên đơn, nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 6, Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 147, Điều 177, Điều 228, Điều 238, Điều 483 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 430, Điều 434, Điều 440, Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 6, Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Chu Thị P là chủ Hộ kinh doanh BH về “Tranh chấp hợp đồng mua bán thức ăn gia súc” đối với ông Hồ Văn P1.
Buộc ông Hồ Văn P1 có nghĩa vụ trả cho bà Chu Thị P là chủ Hộ kinh doanh BH số tiền 19.980.000 đồng (Mười chín triệu chín trăm tám mươi nghìn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Về án phí:
Ông Hồ Văn P1 phải chịu 999.000 đồng (Chín trăm chín mươi chín nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nộp vào ngân sách nhà nước.
Bà Chu Thị P không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả cho bà P số tiền 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007348 ngày 07/6/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Trụ, tỉnh Long An.
3. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
4. Án xử sơ thẩm công khai, các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán thức ăn gia súc số 61/2022/DS-ST
Số hiệu: | 61/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Trụ - Long An |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 27/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về