Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 22/2022/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 22/2022/DS-ST NGÀY 12/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 9 năm 2022 tại Hội trường Toà án nhân dân huyện Đồng Hỷ, xét xử sơ thẩm vụ án Dân sự thụ lý số 19/2022/TLST-DS ngày 21/6/2022 về việc kiện “Tranh chấp Hợp đồng mua bán tài sản”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2022/QĐXX-ST ngày 10/8/2022 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Công ty cổ phần sản xuất kinh doanh D Địa chỉ: xóm 6, xã S, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

Đại diện theo pháp luật: Bà Hoàng Trung Th, sinh năm 1989 Chức vụ: Giám đốc

2. Bị đơn: Ông Đặng Ngọc Qu, sinh năm 1985 Bà Nguyễn Thị Nh, sinh năm 1979 Cùng địa chỉ: xóm Tr, xã H, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. ( Bà Th có mặt, ông Qu và bà Nh vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa đại diện theo pháp luật của nguyên đơn bà Hoàng Trung Thu trình bày:

Công ty cổ phần sản xuất kinh doanh D (viết tắt là Công ty) được thành lập năm 2015, có kinh doanh lĩnh vực buôn bán thức ăn chăn nuôi.

Ông Đặng Ngọc Qu và bà Nguyễn Thị Nh là khách hàng của công ty D, từ năm 2018 thì ông Qu, bà Nh bắt đầu mua bán cám với công ty. Việc mua bán cám có sổ sách theo dõi công nợ, mỗi lần mua hàng ông Qu hoặc bà Nh đều ký nhận vào sổ giao hàng. Việc mua hàng theo hình thức Công ty đầu tư cám ban đầu, đến khi nào ông Qu, bà Nh bán được sản phẩm thì có trách nhiệm trả tiền cám còn nợ cho Công ty, thông thường là 3 tháng 15 ngày thì phải trả toàn bộ số nợ cám đã đầu tư.

Ngày 15/7/2020 hai bên đã chốt công nợ là 187.390.000đ (Một trăm tám mươi bảy triệu ba trăm chín mươi nghìn đồng), ông Qu, bà Nh trực tiếp ký nhận nợ với công ty. Sau khi chốt nợ, ngày 30/9/2020 ông Qu, bà Nh đã thanh toán cho công ty 20.000.000đ, ngày 23/7/2021 thanh toán cho công ty 10.000.000đ, ngày 23/12/2021 thanh toán 19.000.000đ. Tính đến nay ông Qu, bà Nh đã trả cho Công ty số tiền 49.000.000đ, còn nợ lại công ty số tiền cám chưa thanh toán là 138.390.000đ (Một trăm ba mươi tám triệu ba trăm chín mươi nghìn đồng) Kể từ đó đến nay Công ty không nhận được thêm khoản thanh toán nào từ phía ông Qu, bà Nh.

Nay công ty đề nghị Tòa án giải quyết buộc ông Đặng Ngọc Qu và bà Nguyễn Thị Nh phải trả toàn bộ số tiền cám còn nợ là 138.390.000đ (Một trăm ba mươi tám triệu ba trăm chín mươi nghìn đồng), trả làm một lần, không yêu cầu lãi suất.

Tại bản tự khai, biên bản hòa giải bị đơn ông Đặng Ngọc Qu trình bày:

Ông xác nhận Công ty cổ phần sản xuất kinh doanh D trình bày là đúng, vợ chồng ông có mua cám chăn nuôi của Công ty D từ năm 2018, hai bên thỏa thuận công ty đầu tư cám, khi nào bán được vật nuôi thì trả tiền cho Công ty. Do ông bà chăn nuôi lợn bị dịch tả phải mang đi tiêu hủy, nuôi gà giá xuất bán thấp nên bị thua lỗ.

Ngày 15/7/2020 hai bên đã chốt công nợ là 187.390.000đ (Một trăm tám mươi bảy triệu ba trăm chín mươi nghìn đồng), vợ chồng ông là người trực tiếp ký nhận nợ. Sau khi ký nhận nợ đã thanh toán cho Công ty được số tiền 49.000.000đ, còn nợ lại công ty số tiền cám chưa thanh toán là 138.390.000đ (Một trăm ba mươi tám triệu ba trăm chín mươi nghìn đồng) Nay ông xác định việc ông bà chăn nuôi có mua cám của công ty là đúng. Do vậy Công ty D khởi kiện yêu cầu phải trả số tiền gốc là 138.390.000đ (Một trăm ba mươi tám triệu ba trăm chín mươi nghìn đồng), ông bà nhất trí trả số tiền này cho Công ty. Nhưng do hiện tại kinh tế khó khăn, vợ chồng ông bà phải đi làm mới có tiền để vừa trả nợ vừa trang trải cuộc sống, nên xin được trả dần cho Công ty, 3 tháng trả cho công ty 10.000.000đ, nếu làm ăn được thì sẽ trả nhiều hơn cho Công ty hoặc trả hết cho Công ty D một lần.

Bị đơn là bà Nguyễn Thị Nh vắng mặt nhưng đã có lời khai xác định: bà nhất trí với ý kiến trình bày của Công ty, xác nhận còn nợ Công ty D tiền cám chưa trả là 138.390.000đ (Một trăm ba mươi tám triệu ba trăm chín mươi nghìn đồng) theo như sổ sách của Công ty, nhất trí trả nhưng xin được trả dần theo thỏa thuận là 3 tháng trả 10.000.000đ.

Sau khi thụ lý Tòa án đã triệu tập hợp lệ các bên đương sự đến để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải tại Tòa án. Tuy nhiên chỉ có ông Qu đến tham gia phiên họp và hòa giải, tại phiên hòa giải các bên vẫn giữ nguyên quan điểm không thoả thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án nên phải đưa ra xét xử công khai ngày hôm nay.

Tại phiên tòa đại diện VKSND huyện Đồng Hỷ phát biểu ý kiến xác định, việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định tại Điều 48, 49, 51, 63 của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt, không chấp hành đúng quy định của pháp luật. Về thẩm quyền, thời hạn giải quyết vụ án đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về đường lối giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông Đặng Ngọc Qu và bà Nguyễn Thị Nh phải trả cho Công ty D số tiền cám còn nợ lại là 138.390.000đ (Một trăm ba mươi tám triệu ba trăm chín mươi nghìn đồng); Về lãi suất: Nguyên đơn không yêu cầu nên không xem xét; Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp Hợp đồng mua bán tài sản. Bị đơn hiện cư trú tại huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên và nguyên đơn có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ giải quyết nên thuộc thẩm quyên giải quyêt của Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Về việc vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ lần thứ hai nhưng bị đơn là ông Qu, bà Nh vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt ông Qu, bà Nh.

[3] Về nội dung: Nguyên đơn Công ty cổ phần sản xuất kinh doanh D khởi kiện yêu cầu bị đơn ông Đặng Ngọc Qu và bà Nguyễn Thị Nh trả số tiền nợ gốc trong quá trình mua bán cám chăn nuôi là 138.390.000đ (Một trăm ba mươi tám triệu ba trăm chín mươi nghìn đồng) và không yêu cầu tính lãi suất. Chứng cứ nguyên đơn đưa ra là sổ ghi chép việc mua bán cám và giấy xác nhận nợ có chữ ký của ông Qu, bà Nh.

Bị đơn là bà Nguyễn Thị Nh và ông Đặng Ngọc Qu thừa nhận có mua bán cám với Công ty, sổ giao cám có chữ ký của hai vợ chồng và ngày 15/7/2020 hai bên đã chốt công nợ là 187.390.000đ (Một trăm tám mươi bảy triệu ba trăm chín mươi nghìn đồng), ông Qu, bà Nh là người trực tiếp ký nhận nợ. Sau khi ký nhận nợ ông bà đã trả cho Công ty được 49.000.000đ, còn nợ lại công ty số tiền cám chưa thanh toán là 138.390.000đ (Một trăm ba mươi tám triệu ba trăm chín mươi nghìn đồng) theo đúng như sổ sách của Công ty.

Do các bên đương sự đều thừa nhận về số tiền còn nợ lại là 138.390.000đ (Một trăm ba mươi tám triệu ba trăm chín mươi nghìn đồng), nên đây là tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Công ty yêu cầu ông Qu, bà Nh phải trả toàn bộ số nợ trên cho Công ty làm một lần. Phía ông Qu, bà Nh cho rằng do khó khăn về kinh tế nên xin được trả dần số nợ trên nhưng Công ty không nhất trí. Việc bị đơn không thanh toán số tiền cám còn nợ lại đã vi phạm vào nghĩa vụ trả tiền theo quy định tại Điều 440 Bộ luật dân sự. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ để chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần sản xuất kinh doanh D, buộc bà Nguyễn Thị Nh và ông Đặng Ngọc Qu phải có nghĩa vụ trả cho Công ty cổ phần sản xuất kinh doanh D toàn bộ số tiền cám còn nợ lại là 138.390.000đ (Một trăm ba mươi tám triệu ba trăm chín mươi nghìn đồng).

[4]Về lãi suất: Trong quá trình giải quyết Công ty D không yêu cầu phải trả lãi phát sinh nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5]Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Hỷ tại phiên tòa đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp và có căn cứ.

[6]Về án phí: Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án: Do yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần sản xuất kinh doanh D được chấp nhận nên bà Nguyễn Thị Nh và ông Đặng Ngọc Qu phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch nộp ngân sách Nhà nước.

[7]Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, 39, 147, Điều 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 357, 430, 440, 468 Bộ luật dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí; Điều 30 Luật thi hành án dân sự;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần sản xuất kinh doanh D về Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản đối với bị đơn ông Đặng Ngọc Qu, bà Nguyễn Thị Nh

2. Buộc ông Đặng Ngọc Qu và bà Nguyễn Thị Nh phải có trách nhiệm trả cho Công ty cổ phần sản xuất kinh doanh D toàn bộ số tiền cám còn nợ lại là : 138.390.000đ (Một trăm ba mươi tám triệu ba trăm chín mươi nghìn đồng).

Về lãi suất: Công ty cổ phần sản xuất kinh doanh D không yêu cầu, nên không xem xét.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành, nếu người phải thi hành án không tự nguyện thi hành khoản tiền trên, thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi theo khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

3. Về án phí: Ông Đặng Ngọc Qu và bà Nguyễn Thị Nh phải chịu 6.919.500 đ (Sáu triệu chín trăm mười chín nghìn năm trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch nộp ngân sách Nhà nước.

- Hoàn trả Công ty cổ phần sản xuất kinh doanh D số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 3.459.000đồng (Ba triệu bốn trăm năm mươi chín nghìn đồng) tại biên lai thu số 0005353 ngày 21/6/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đồng Hỷ.

4. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bà Hoàng Trung Th báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Ông Đặng Ngọc Qu, bà Nguyễn Thị Nh vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

119
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 22/2022/DS-ST

Số hiệu:22/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về