Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 118/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 118/2022/DS-ST NGÀY 21/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN 

Ngày 21 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh C xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 441/2021/TLST-DS ngày 15 tháng 12 năm 2021, về việc tranh chấp “Hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 179/2022/QĐXXST-DS ngày 22 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Trung L, sinh năm 1975 (vắng mặt). Địa chỉ : K 2, thị trấn C, huyện P, tỉnh C.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Hoàng Trung H, sinh năm 1991 (có mặt).

Địa chỉ : K, thị trấn C, huyện P, tỉnh C.

2. Bị đơn: Ông Trương Quốc V (vắng mặt). Địa chỉ : Ấp T, xã N, huyện P, tỉnh C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình xét xử, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Hoàng Trung H trình bày:

Vào năm 2015 ông Nguyễn Trung L và ông Trương Quốc V có hợp đồng mua bán thức ăn và thuốc nuôi thủy sản. Ông L bán thức ăn và thuốc nuôi thủy sản cho ông V nhiều lần, đến ngày 23/8/2015 hai bên đối chiếu nợ, ông V còn nợ ông L số tiền 97.094.000 đồng, ông Trương Quôc V có ký tên vào biên bản đối chiếu nợ. Sau đó ông L có yêu cầu ông V thanh toán nợ nhưng cứ trì hoãn đến nay vẫn chưa thanh toán nợ. Tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Trương Quốc V trả cho ông Nguyễn Trung L số tiền 97.094.000 đồng.

Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án Tòa án đã triệu tập hợp lệ đối với ông Trương Quốc V nhưng vẫn vắng mặt và không cung cấp cho Tòa án văn bản nêu ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Xét về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Trương Quốc V có nơi cư trú tại huyện P, nguyên đơn ông Nguyễn Trung L khởi kiện ông V về việc tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản nên Tòa án nhân dân huyện P thụ lý giải quyết là đúng theo quy định tại Điều 26, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai đối với ông Trương Quốc V nhưng ông Trương Quốc V vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Trương Quốc V là phù hợp với quy định.

[2] Xét về quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn ông Nguyễn Trung L khởi kiện bị đơn ông Trương Quốc V về việc bị đơn còn nợ nguyên đơn tiền mua thức ăn và thuốc nuôi thủy sản số tiền 97.094.000 đồng. Xét tranh chấp giữa các đương sự được xác định là tranh chấp “Hợp đồng mua bán tài sản”.

[3] Xét về nội dung tranh chấp: Tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Hoàng Trung H xác định bị đơn còn nợ số tiền 97.094.000 đồng đến nay chưa thanh toán. Ông Hoàng Trung H yêu cầu bị đơn trả cho nguyên đơn số tiền 97.094.000 đồng. Nguyên đơn có cung cấp cho Tòa án giấy xác nhận nợ có ký tên Trương Quốc V. Hội đồng xét xử xét thấy, giấy xác nhận nợ nguyên đơn cung cấp cho Tòa án không có người chứng kiến và không có ai xác nhận, nhưng sau khi Tòa án thụ lý vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ cho bị đơn, nhưng bị đơn không có ý kiến gì. Như vậy bị đơn ông Trương Quôc V đã thừa nhận nợ nên không có ý kiến gì đối với yêu cầu của nguyên đơn. Từ những căn cứ nêu trên, xét thấy yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở nên cần buộc bị đơn là ông Trương Quốc V trả cho nguyên đơn ông Nguyễn Trung L số tiền 97.094.000 đồng là phù hợp.

[4] Xét về án phí: Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên nguyên đơn không phải chịu án phí, bị đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 430 Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông Nguyễn Trung L, buộc bị đơn ông Trương Quốc V trả cho ông Nguyễn Trung L số tiền 97.094.000 đồng.

Kể từ ngày nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị đơn không thi hành xong khoản tiền trên, thì phải chịu khoản tiền lãi chậm trả tương ứng với số tiền và thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 468 của Bộ luật dân sự.

Án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn ông Trương Quốc V phải chịu 4.854.700 đồng. Nguyên đơn ông Nguyễn Trung L không phải chịu án phí, nguyên đơn có nộp tạm ứng án phí 2.427.000 đồng, theo biên lai thu số 0017415 ngày 15 tháng 12 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Tân được hoàn lại.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án đựơc niêm yết công khai.

“Trường hp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 118/2022/DS-ST

Số hiệu:118/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 21/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về