Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán lúa số 175/2022/DS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 175/2022/DS-PT NGÀY 13/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN LÚA 

Ngày 13 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 101/2022/TLPT- DS ngày 16 tháng 5 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán lúa”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 32/2022/DS-ST ngày 24 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện U Minh, tỉnh Cà Mau bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 100/2022/QĐPT-DS ngày 31 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Lâm Chí L1, sinh năm: 1966 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp M, xã K, huyện T, tỉnh C ..

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm: 1972 (có mặt). Địa chỉ: Ấp 7, xã K, huyện U, tỉnh C ..

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Bùi Quốc G, sinh năm: 1969 (có mặt). Địa chỉ: Ấp M, xã K, huyện T, tỉnh C ..

2. Ông Trần Văn L2, sinh năm: 1973 (có mặt). Địa chỉ: Ấp 7, xã K, huyện U, tỉnh C ..

3. Ông Trần Văn V, sinh năm: 1966 (có mặt). Địa chỉ: Ấp 9, xã K, huyện U, tỉnh C .

- Người kháng cáo: Ông Trần Văn L2 và ông Trần Văn V – Là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn ông Lâm Chí L1 trình bày:

Vào tháng 9/2019, ông có bán cho ông Bùi Quốc G, ông Trần Văn V, ông Trần Văn L2, ông Nguyễn Văn T 13.583kg lúa ST24 giá 5.600đ/kg thành tiền 76.064.000 đồng. Ông G đã trả được 40.000.000 đồng còn thiếu lại 36.064.000 đồng, đã đòi nhiều lần nhưng chưa thanh toán, do đó, ông L1 yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Trần Văn V, Nguyễn Văn T, Bùi Quốc G, Trần Văn L2 trả cho ông L1 số tiền 36.064.000 đồng.

- Bị đơn ông Nguyễn Văn T trình bày:

Ông và các ông Trần Văn V, Trần Văn L2, Bùi Quốc G, Trần Văn Điều, Hồ Ngọc Mến cùng nhau thành lập Công ty chế biến nông sản sạch Hải Triều, đăng ký tại Sở Kế hoạch đầu tư tỉnh Cà Mau vào năm 2018. Ông là người đại diện theo pháp luật của Công ty. Mục đích thành lập công ty là làm gạo sạch, nghĩa là mua lúa về xay xát để kinh doanh gạo sạch. Tuy nhiên, làm thủ tục xong nhưng không ai góp vốn nên công ty không hoạt động được lĩnh vực đã đăng ký. Sau đó ông có đề xuất mua lúa tươi của nông dân về bán lại lấy lời chia lại cho 04 người là ông, Giang, Luyện, Vẹn những người này đều đồng ý. Việc mua bán lúa là phát sinh sau, không liên quan đến việc đăng ký kinh doanh của công ty Hải Triều mà các ông làm với tư cách cá nhân. Quá trình thực hiện có phân công công việc mua lúa như sau: Ông G là người liên hệ người dân để mua lúa, ông tìm thương lái để bán lúa, ông V, ông L2 có trách nhiệm đem bao đi cân lúa, khi nào ông G không thu mua kịp thì hai người phụ việc cân, ghi số lượng lúa. Ông chỉ nắm số lượng lúa ông G mua chứ không biết cụ thể số lượng của từng hộ dân và giao dịch tiền bạc thế nào. Khi ông G báo số lượng lúa thu mua được thì ông giao tiền cho ông G để trả cho các hộ dân. Sau khi thu mua hết 1 vụ khoảng 1 tháng thì tổng kết lại, có lời thì chia. Việc thỏa thuận trên do bốn người bàn với nhau, không thể hiện bằng văn bản.

Sau khi làm được 1 vụ thì lỗ nên không làm nữa. Số tiền bán được bao nhiêu thì ông không nhớ. Ông đưa cho ông G 2.482.000.000 đồng, sau khi trừ cấn thì còn lỗ khoảng 177.200.000 đồng thì phải chia ra, mỗi người khoảng 44.300.000 đồng. Sau khi trừ cấn các khoản (mua lúa, bảo hiểm…) thì ông còn nợ ông G 153.000.000 đồng. Khi tính toán thì ông V, ông L2 mỗi người cũng phải chịu trách nhiệm khoảng mỗi người khoảng 44.300.000 đồng, tuy nhiên có số lúa bị thất thoát thì hai người này không chịu, chỉ chịu thiếu khoảng ba mươi mấy triệu đồng. Hiện nay giữa 04 người chưa tính toán cụ thể số tiền còn thiếu các hộ dân và việc thanh toán nợ. Tuy nhiên, ông thống nhất việc có thiếu tiền mua lúa của ông L1, đồng ý cùng có trách nhiệm với ông G, ông V, ông L2 trả số tiền còn thiếu theo yêu cầu của ông L1.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Bùi Quốc G trình bày:

Sau khi thỏa thuận lập công ty làm gạo sạch nhưng không đủ vốn nên không làm nữa mà chuyển sang thu mua lúa tươi kiếm lời việc mua lúa tươi là việc ông, ông T, ông V và ông L2 thỏa thuận làm với tư cách các nhân không liên quan gì đến công ty. Khi làm thì ông thỏa thuận mua với hộ dân, ông V, ông L2 cũng tiếp bỏ bao, cân lúa. Tổng số tiền mua lúa của hộ dân là 2.751.309.000 đồng. Ông T đưa trả cho hộ dân mua lúa 2.482.630.000 đồng, còn nợ lại 268.679.000 đồng. Khi các hộ dân hối thúc việc trả tiền, ông T đưa thêm 50.000.000 đồng để trả. Hiện nay còn thiếu của 07 hộ dân với tổng số tiền khoảng 218.000.000 đồng trong đó có ông L1. Đối với yêu cầu của ông L1, ông đồng ý cùng có trách nhiệm với ông T, ông V, ông L2 trả số tiền còn thiếu theo yêu cầu khởi kiện của ông L1.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn V trình bày:

Ông thống nhất là đến ngày 17/01/2022 giữa ông với ông T, ông L2 và ông G sẽ cùng nhau ngồi lại tính toán cụ thể việc mua, bán lúa xem lời, lỗ như thế nào thì giữa 04 ông sẽ làm văn bản để thống nhất việc thanh toán cho những hộ mua lúa còn thiếu. Nếu việc tính toán chính xác số tiền còn nợ ông L1 sẽ thanh toán dứt điểm cho ông L1 trong thời hạn 04 tháng tức là đến ngày 07/05/2022.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn L2 trình bày:

Ông G là người trực tiếp giao dịch việc mua lúa của các hộ dân, ông chỉ là người đi bỏ bao, ông không biết việc ông G trả tiền cho người dân cụ thể bao nhiêu, ông T bán được bao nhiêu nên ông không thống nhất hứa với bà con tại phiên hòa giải này. Đến ngày 17/01/2022 giữa ông với ông T, ông V và ông G sẽ cùng nhau ngồi lại tính toán cụ thể việc mua, bán lúa xem lời, lỗ như thế nào. Nếu việc tính toán mà phù hợp thì ông mới thống nhất sẽ làm văn bản thanh toán cho những hộ mua lúa còn thiếu.

Từ nội dung vụ án nêu trên, Bản án sơ thẩm quyết định:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Lâm Chí L1. Buộc ông Nguyễn Văn T, ông Bùi Quốc G, ông Trần Văn V, ông Trần Văn L2 mỗi người có trách nhiệm trả cho ông Lâm Chí L1 số tiền 9.016.000 (Chín triệu năm trăm nghìn) đồng.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về lãi chậm thi hành án, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau phát biểu: Về tố tụng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử tiến hành đúng theo quy định của pháp luật tố tụng và các đương sự cũng chấp hành đúng với quyền và nghĩa vụ của các đương sự được pháp luật quy định. Về nội dung: Đề nghị căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, tuyên xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các đương sự; Giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, xét kháng cáo của đương sự. Hội đồng xét xử thấy rằng:

[1] Về tố tụng: Tòa sơ thẩm đã thụ lý đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung tranh chấp: Ông Lâm Chí L1 với các ông Nguyễn Văn T, ông Bùi Quốc G, ông Trần Văn V, ông Trần Văn L2 có giao kết hợp đồng bằng lời nói về việc mua bán lúa. Nội dung cụ thể của hợp đồng là ông L1 bán lúa giá mua lúa theo thỏa thuận, phương thức thanh toán sau khi mua lúa khoảng từ 05-07 ngày sẽ thanh toán là thực tế có xảy ra. Quá trình thực hiện hợp đồng vào tháng 9/2019, ông L1 có bán cho ông Bùi Quốc G, ông Trần Văn V, ông Trần Văn L2 ông Nguyễn Văn T 13.583kg lúa ST24 giá 5.600đ/kg thành tiền 76.064.000 đồng. Ông G đã trả được 40.000.000 đồng còn thiếu lại 36.064.000 đồng, ông L1 yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông T, ông G, ông L2, ông V trả cho ông L1 số tiền 36.064.000 đồng. Đối với ông T, ông G thống nhất việc có thiếu tiền mua lúa của ông L1, đồng ý cùng có trách nhiệm với ông G, ông V, ông L2 trả số tiền còn thiếu theo yêu cầu của ông L1. Tuy nhiên, đối với ông V, ông L2 không chấp nhận trả, vì số nợ chưa được tính toán chính xác.

[3] Xét thấy, việc thỏa thuận mua lúa tươi của nông dân sau đó bán lại kiếm lời đã được ông Nguyễn Văn T, ông Bùi Quốc G, ông Trần Văn V, ông Trần Văn L2 cùng nhau bàn bạc, thống nhất cụ thể về cách thực hiện, phân chia công việc của mỗi người, cụ thể ông G là người liên hệ người dân để mua lúa, ông T tìm thương lái để bán lúa, ông V, ông L2 có trách nhiệm đem bao đi cân lúa, khi ông G không thu mua kịp thì ông V, ông L2 phụ việc cân, ghi số lượng lúa, đồng thời các ông đã thỏa thuận lời lỗ cùng chia đều. Các ông T, Giang, Vẹn, Luyện đều xác định việc hùn mua bán lúa là với tư cách cá nhân, (không phải với tư cách Công ty). Đối với việc mua lúa của ông L1, tại tòa ông G xác định ông là người đi đặt cọc 5.000.000 đồng để mua lúa ông L1 (sau khi ông V và ông L2 đi xem lúa của ông L1 về báo lại với ông G). Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự thống nhất có mua lúa của ông L1 nhưng chưa thanh toán đầy đủ, số tiền nợ bao nhiêu thì chưa được tính toán chính xác (Bút lục số 30-31). Như vậy, có căn cứ xác định bên mua lúa đã vi phạm nội dung hợp đồng, nên làm phát sinh nghĩa vụ với bên bán, cụ thể là bên mua phải thanh toán đủ số tiền mua lúa còn thiếu. Do đó, Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông L1, cần buộc các ông T, Giang, Vẹn, Luyện cùng có nghĩa vụ trả cho ông L1 số tiền mua lúa còn thiếu là 36.064.000 đồng, mỗi người có trách nhiệm bằng nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ nguyên đơn 9.016.000 đồng là có cơ sở. Từ đó, xét yêu cầu kháng cáo của ông V, ông L2, và tại phiên tòa phúc thẩm không chấp nhận trả nợ vì cho rằng số nợ chưa được tính toán chính xác là không phù hợp, nên không được chấp nhận. Đối với việc bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng thừa nhận còn nợ tiền lúa nhiều hộ nông dân, đã được Tòa án hai cấp xét xử nhiều Bản án, cũng đã buộc các đương sự trả nợ cho nông dân.

[4] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông V, ông L2; Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm là phù hợp.

[5] Về án phí:

- Án phí dân sự sơ thẩm: Giữ nguyên như quyết định Bản án sơ thẩm đã tuyên là phù hợp.

- Án phí dân sự phúc thẩm: Do không chấp nhận yêu cầu kháng cáo, nên buộc ông L2, ông V phải chịu mỗi người 300.000 đồng (đã dự nộp xong).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308, Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Trần Quốc Vẹn và ông Trần Văn L2.

Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 32/2022/DS-ST ngày 24 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Lâm Chí L1. Buộc ông Nguyễn Văn T, ông Bùi Quốc G, ông Trần Văn V, ông Trần Văn L2 mỗi người có trách nhiệm trả cho ông Lâm Chí L1 số tiền 9.016.000 (chín triệu năm trăm nghìn) đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, nếu người phải thi hành án chậm thi hành án thì hàng tháng còn phải chịu khoản lãi phát sinh tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

2. Về án phí:

- Về án phí sơ thẩm:

Ông Nguyễn Văn T, ông Bùi Quốc G, ông Trần Văn V, ông Trần Văn L2 mỗi người phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 450.800 đồng (chưa nộp).

Ông Lâm Chí L1 không phải chịu án phí sơ thẩm. Ông L1 đã nộp tạm ứng án phí số tiền 902.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0006404 ngày 14 tháng 7 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện U Minh, tỉnh Cà Mau được nhận lại.

- Về án phí phúc thẩm:

Ông L2, ông V phải chịu mỗi người 300.000 đồng, các ông đã dự nộp mỗi người 300.000 đồng theo các biên lai thu số: 0010427, 0010428 ngày 19 tháng 4 năm 2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện U Minh được chuyển thu đối trừ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

373
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán lúa số 175/2022/DS-PT

Số hiệu:175/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 13/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về