Bản án về tranh chấp hợp đồng giao khoán và yêu cầu bồi thường thiệt hại tài sản số 64/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 64/2022/DS-ST NGÀY 16/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GIAO KHOÁN VÀ YÊU CẦU BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TÀI SẢN

Vào ngày 16 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 283/2021/TLST-DS ngày 23 tháng 12 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng giao khoán và yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 124/2022/QĐXXST-DS ngày 28 tháng 7 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 76/2022/QĐST-DS ngày 19 tháng 8 năm 2022, giữa:

- Nguyên đơn: Công ty cổ phần cà phê T. Địa chỉ: xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

Đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Hoàng P, chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Đình B, sinh năm 1957, có mặt. Địa chỉ: thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

- Bị đơn: Bà Lê Thị X, sinh năm 1969.

Đại diên theo ủy quyền của bị đơn: Ông Hồ Viết H, sinh năm 1983. Cùng địa chỉ: xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Công ty cổ phần cà phê T ông Phạm Đình B trình bày:

Vào ngày 25/8/2011, bà Lê Thị X có đơn xin hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên gửi Công ty TNHH MTV cà phê T (nay là Công ty cổ phần cà phê T), để nhận khoán chăm sóc vườn cây cà phê vối của Công ty. Trên cơ sở đơn xin hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê, ngày 27/8/2011 giữa bà Lê Thị X và Công ty đã ký hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê. Cụ thể: Theo hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê số 205a/2011/HĐ-GK, số 205b/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011, thì bà X đã nhận khoán chăm sóc vườn cây cà phê vối của Công ty có diện tích 8.325 m2, diện tích bờ lô 1.207 m2; thửa đất số 37a, tờ bản đồ số 09, thuộc đội 15/2; địa chỉ: xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Nguyên giá vườn cây khi nhận khoán có giá là 19.639.763 đồng, giá trị vườn cây còn lại là 11.715.044 đồng. Phần giá trị vườn cây trên đất Công ty góp 51%, bà X góp 49%. Thời hạn giao khoán là 04 năm, sau đó gia hạn đến niên vụ 2022-2023, tính từ ngày ký kết hợp đồng.

Từ khi nhận khoán vườn cây đến niên vụ thu hoạch 2017-2018, bà X đã thực hiện theo đúng hợp đồng giao khoán vườn cây đã ký với Công ty. Tuy nhiên, từ niên vụ thu hoạch cà phê 2018-2019 đến niên vụ 2021-2022, bà X đã không thực hiện nghĩa vụ giao nộp sản phẩm cà phê quả tươi cho Công ty theo đúng cam kết trong hợp đồng. Theo thông báo của Cục thuế tỉnh Đắk Lắk số tiền thuê đất bà X phải nộp về Công ty là 5.186.698 đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng bà X đã tự ý cắt nhổ 100% diện tích vườn cây nhận khoán. Ngoài ra, bà X còn tự ý chặt phá, khai thác 08 cây muồng trái phép với khối lượng là 15,07m3 gỗ. Mặc dù, Công ty đã động viên, thông báo nhiều lần nhưng bà X vẫn cố tình chống đối, không hợp tác với Công ty.

Vì vậy, Công ty làm đơn khởi kiện bà X, đề nghị Toà án giải quyết:

1. Tuyên chấm dứt hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê số 205a/2011/HĐ- GK, số 205b/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011, giữa bà Lê Thị X với Công ty TNHH MTV cà phê T (nay là Công ty cổ phần cà phê T). Buộc bà Lê Thị X phải trả lại toàn bộ diện tích đất và vườn cây (theo hợp đồng) cho Công ty cổ phần cà phê T với diện tích 8.325 m2, diện tích bờ lô 1.207 m2; thửa số 37a, tờ bản đồ số 09, thuộc đội 15/2; địa chỉ: xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, có tứ cận: phía Bắc giáp thửa số 34d, tờ bản đồ số 09, người nhận khoán ông Nguyễn Doãn T; phía Nam giáp thửa số 37c, tờ bản đồ số 09, người nhận khoán bà Nguyễn Thị Trà G; phía Đông giáp đất thổ cư thôn 15;

phía Tây giáp thửa số 35, tờ bản đồ số 09, người nhận khoán ông Nguyễn Hưng H.

2. Buộc bà Lê Thị X phải trả cho Công ty cổ phần cà phê T 6.952kg cà phê quả tươi còn nợ của 04 niên vụ (2018-2019, 2019-2020, 2020-2021, 2021-2022). Giá trị tạm tính là 51.650.300 đồng.

Tại phiên tòa, nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc buộc bà X trả sản lượng cà phê cho Công ty với sản lượng là 270kg cà phê quả tươi (do sơ suất trong việc tính toán số liệu). Nguyên đơn đề nghị giải quyết buộc là X trả cho Công ty cổ phần cà phê T 6.682kg cà phê quả tươi còn nợ của 04 niên vụ.

3. Buộc bà Lê Thị X phải nộp tiền thuê đất về Công ty phần 49% là 5.186.698 đồng.

4. Buộc bà Lê Thị X phải bồi thường 100% giá trị vườn cây cà phê do bà X tự ý chặt.

Tại phiên tòa, nguyên đơn chỉ yêu cầu bà X bồi thường 51% giá trị vườn cây cà phê do bà X tự ý chặt, nguyên đơn rút 49% giá trị vườn cây, không yêu cầu bà X phải bồi thường.

Theo kết quả định giá tài sản, giá trị vườn cây cà phê do bà X tự ý chặt (hiện không còn) là 160.917.000 đồng. Công ty cổ phần cà phê T yêu cầu bà X bồi thường phần 51% giá trị vườn cây cà phê có giá là 82.067.670 đồng.

5. Buộc bà Lê Thị X bồi thường thiệt hại do hành vi khai thác 08 cây muồng trái phép với khối lượng là 15,07m3 gỗ.

Tại phiên tòa, nguyên đơn chỉ yêu cầu bà X bồi thường 70% giá trị cây muồng đã chặt hạ, nguyên đơn rút 30% giá trị cây muồng, không yêu cầu bà X phải bồi thường.

Theo kết quả định giá tài sản thì 08 cây muồng đen trồng năm 1988 có giá là 69.623.400 đồng. Công ty cổ phần cà phê T yêu cầu bà X phải bồi thường 70% giá trị cây muồng đen do hành vi chặt hạ trái phép 08 cây trồng năm 1988 là 48.736.380 đồng.

Tại biên bản làm việc ngày 01/7/2022, đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Hồ Viết H trình bày:

Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bị đơn không đồng ý, vì: Theo bị đơn hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê giữa Công ty TNHHMTV cà phê T và bà Lê Thị X là vô hiệu từ giai đoạn năm 2018, vì vậy từ năm 2018 đến nay bị đơn bà Lê Thị X chưa đóng sản lượng cho Công ty theo hợp đồng đã ký kết. Vào năm 2018, bị đơn bà Lê Thị X đã nhổ vườn cây cà phê cũ để trồng mới vườn cây cà phê mới vào năm 2021, vì trước đó vào năm 2016, 2017 bà Lê Thị X đã có đơn gửi Công ty xin nhổ vườn cây cà phê cũ để trồng lại vườn cây cà phê mới, vì cà phê đã già cỗi không có sản lượng thu hoạch, tuy nhiên Công ty không đồng ý. Bị đơn đã nhận được thông báo kết quả thẩm định, định giá vườn cây, bị đơn không đồng ý, tuy nhiên bị đơn không có yêu cầu gì.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Đối với bị đơn mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tham gia phiên tòa nhưng đều vắng mặt không có lý do là vi phạm quy định tại các Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 5, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm c khoản 1 Điều 217, Điều 218, Điều 219, Điều 244, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ các Điều 388, 390, 392, 412, 414, 501, 502, 503, 506 của Bộ luật dân sự năm 2005; điểm c khoản 1 Điều 688 của Bộ luật dân sự năm 2015; Các Điều 7, 8, 9, 10, 12 của Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ; Thông tư số 102/2006/TT-BNN ngày 13 tháng 11 năm 2006 của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn hướng dẫn một số điều của Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ; Luật đất đai năm 2003.

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần cà phê T:

- Buộc bà Lê Thị X phải trả cho Công ty cổ phần cà phê T 6.682kg quả cà phê tươi trong 04 niên vụ (2018-2019, 2019-2020, 2020-2021, 2021-2022). Giá trị tại thời điểm xét xử sơ thẩm là 71.960.000đ (bảy mươi mốt triệu chín trăm sáu mươi nghìn đồng).

- Chấm dứt hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên số 205a/2011/HĐ-GK, hợp đồng số 205b/2011/HĐ-GK, ngày 27/8/2011đã ký kết giữa Công ty TNHH MTV cà phê T (nay là Công ty cổ phần cà phê T) và bà Lê Thị X.

Bà Lê Thị X có nghĩa vụ trả lại diện tích đất nhận khoán theo hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên số 205a/2011/HĐ-GK, hợp đồng số 205b/2011/HĐ-GK, ngày 27/8/2011 đã ký kết với Công ty TNHH MTV cà phê T (nay là Công ty cổ phần cà phê T), cụ thể: Diện tích cà phê giao khoán 8.330m2, diện tích bờ lô 1.209m2; thửa đất số 37a, tờ bản đồ số 09, thuộc đội 15/2; địa chỉ: xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; thửa đất có tứ cận:

Phía Bắc giáp: Thửa số 34d, tờ bản đồ số 09, người nhận khoán ông Nguyễn Doãn T; phía Nam giáp: Thửa số 37c, tờ bản đồ số 09, người nhận khoán bà Nguyễn Thị Trà G; phía Đông giáp: Đất thổ cư thôn 15; phía Tây giáp: Thửa số 35, tờ bản đồ số 09, người nhận khoán ông Nguyễn Hưng H.

Công ty cổ phần cà phê T có trách nhiệm trả lại giá trị vườn cây cà phê trên đất cho bà Lê Thị X số tiền là 79.560.000đ (bảy mươi chín triệu năm trăm sáu mươi nghìn đồng).

- Buộc bà Lê Thị X có trách nhiệm trả lại cho Công ty cổ phần cà phê T phần 51% giá trị của vườn cây cà phê do bà Lê Thị X tự ý chặt vào năm 2018 với số tiền là 82.067.670 (tám mươi hai triệu không trăm sáu mươi bảy nghìn sáu trăm bảy mươi đồng).

- Buộc bà Lê Thị X bồi thường cho Công ty cổ phần cà phê T thiệt hại do hành vi chặt phá cây muồng chắn gió và che bóng cho cây cà phê số tiền là 48.736.380đ (bốn mươi tám triệu bảy trăm ba mươi sáu nghìn ba trăm tám mươi đồng).

- Buộc bà Lê Thị X nộp tiền thuê đất cho Công ty cổ phần cà phê T số tiền là 5.186.698đ (năm triệu một trăm tám mươi sáu nghìn sáu trăm chín mươi tám đồng).

2. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần cà phê T đối với sản lượng cà phê quả tươi là 270kg; yêu cầu bồi thường giá trị 30% cây muồng đen, 49% giá trị vườn cây cà phê.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

- Về quan hệ tranh chấp: Căn cứ vào đơn khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xác định đây là “Tranh chấp hợp đồng giao khoán và yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản” được quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn có địa chỉ tại xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về sự tham gia của đương sự tại phiên tòa: Tại phiên tòa, bị đơn, đại diện theo ủy quyền của bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Vì vậy, căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung: Xét yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần cà phê T Hội đồng xét xử xét thấy:

Qua xem xét các hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên số 205a/2011/HĐ-GK, hợp đồng số 205b/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011, giữa Công ty TNHH MTV cà phê T với bà Lê Thị X thì thấy: Đây là hợp đồng song vụ có thời hạn, khi thực hiện việc giao kết hợp đồng các bên đều hoàn toàn tự nguyện và có đầy đủ năng lực trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật, về nội dung cũng như hình thức của hợp đồng hai bên đã ký kết không vi phạm pháp luật nên có giá trị pháp lý, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Mặt khác, trong quá trình thực hiện hợp đồng giao khoán, bà X đều đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc vườn cây theo đúng quy định của Công ty và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao nộp sản phẩm theo hợp đồng giao khoán vườn cây đã ký kết với Công ty kể từ khi ký kết cho đến hết niên vụ cà phê 2017-2018 và bà X thừa nhận việc ký kết các hợp đồng, không có tranh chấp nội dung của các hợp đồng. Do đó, việc thỏa thuận giữa nguyên đơn và bị đơn trong các hợp đồng số 205a/2011/HĐ-GK, 205b/2011/HĐ-GK là căn cứ để giải quyết vụ án và là chứng cứ không cần chứng minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2.1] Xét yêu cầu khởi kiện về việc buộc bà X phải trả cho Công ty cổ phần cà phê T 6.682kg quả cà phê tươi trong 04 niên vụ (2018-2019, 2019-2020, 2020-2021, 2021-2022) thì thấy: Theo điểm c khoản 2 Điều 3 của Hợp đồng khoán gọn đã ký thì bên B (bà X) có nghĩa vụ “Thực hiện nộp sản lượng cho bên A theo quy định”. Bà X thừa nhận từ năm 2018 đến nay bà X chưa đóng sản lượng cho Công ty theo hợp đồng đã ký kết. Như vậy, bà X đã vi phạm Điều 3 của hợp đồng giao khoán. Do đó, yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần cà phê T về việc buộc bà X phải trả cho Công ty cổ phần cà phê T 6.682kg quả cà phê tươi trong 04 niên vụ, là có căn cứ cần chấp nhận. Giá tại thời điểm xét xử là: 49.000đồng/kg : 4,55 kg x 6.682kg = 71.960.000 đồng.

[2.2] Xét yêu cầu khởi kiện về việc buộc bà X phải bồi thường cho Công ty cổ phần cà phê T thiệt hại do hành vi chặt phá cây muồng chắn gió và che bóng cho cây cà phê: Tại khoản 1 Điều 6 của Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê quy định về điều khoản cam kết chung thì “Công ty thống nhất quản lý cây muồng đen hiện có trên lô cà phê giao khoán, nếu vì lý do quá dày rợp, già cỗi phải cắt tỉa hoặc khi vườn cây thanh lý thì công ty sẽ tổ chức kiểm kê, lập thủ tục bán theo phương thức đấu thầu…”. Như vậy, việc bà X tự ý cắt hạ cây muồng đen trên diện tích đất nhận khoán là vi phạm hợp đồng đã ký kết. Dựa vào biên bản ghi lời khai, biên bản khám nghiệm hiện trường của Công an huyện Krông Pắc và số lượng Công ty cung cấp thì số lượng cây muồng đen bị chặt hạ là 08 cây trồng năm 1988. Theo kết quả định giá tài sản, 08 cây muồng đen trồng năm 1988 có giá là 69.623.400 đồng.

Tại khoản 1 Điều 6 của hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê và tại mục 7.2.1.2 của Phương án khoán gọn vườn cây cà phê quy định: Đối với cây muồng đen trồng trên lô cà phê từ năm 1992 trở về trước, khi cắt tỉa hoặc thanh lý thì phân chia theo tỷ lệ 70%-30%. Như vậy, đối với 08 cây muồng đen trồng năm 1988 có giá 69.623.400 đồng, chia theo tỷ lệ 70%-30%, buộc bà X phải bồi thường cho Công ty phần 70% là 48.736.380 đồng.

[2.3] Xét yêu cầu khởi kiện về việc buộc bà X phải nộp tiền thuê đất, thì thấy: Tại điểm g khoản 2 Điều 3 của Hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê đã ký kết giữa Công ty với bà X quy định về nghĩa vụ của bên B thì bên B có nghĩa vụ “Nộp tiền thuê đất, thuế đất nông nghiệp cho nhà nước, theo tỷ lệ 51-49%, phần bên B 49% nộp vào tháng 11 trong năm thông qua bên A”. Tuy nhiên, trong thời gian từ năm 2006 đến năm 2010, năm 2015 đến năm 2017, năm 2018 đến năm 2021 bà X chưa nộp tiền thuê đất cho Công ty để Công ty thực hiện nghĩa vụ nộp tiền thuê đất vào Ngân sách nhà nước theo quy định. Theo tài liệu chứng cứ do Công ty cung cấp thì: Tại thông báo số 43/CT-THNVDT ngày 08/01/2018 của Cục thuế tỉnh Đắk Lắk về việc truy thu tiền thuê đất đã miễn sai đối tượng theo kết luận Kiểm toán Nhà nước thì từ năm 2006-2010 (05 năm) tiền thuê đất được tính 1.042.067 đồng/1ha; Thông báo số 802/TB-CT ngày 24/04/2018 của Cục thuế tỉnh Đắk Lắk về việc nộp tiền thuê đất, thuê mặt nước + Thông báo số 984/TB- CT ngày 07/05/2019 của Cục Thuế tỉnh Đắk Lắk về việc nộp tiền thuê đất, thuê mặt nước thì: năm 2015 tiền thuê đất được tính 699.849 đồng/1ha, từ năm 2016 đến 2017 tiền thuê đất được tính 1.786.739 đồng/1ha/năm, từ năm 2018 đến 2019 tiền thuê đất được tính 1.786.748 đồng/1ha/năm; Thông báo số 0695 ngày 23/3/2020 về việc nộp tiền thuê đất, thuê mặt nước năm 2020 của Cục thuế tỉnh Đắk Lắk thì năm 2020 tiền thuê đất được tính 1.785.408 đồng/1ha; Thông báo số 1252 ngày 29/4/2021 về tiền thuê đất theo hình thức nộp hằng năm của Cục thuế tỉnh Đắk Lắk thì năm 2021 tiền thuê đất được tính 1.785.408 đồng/1ha. Như vậy, căn cứ theo các thông báo thuế nêu trên, tiền thuê đất bà X phải có nghĩa vụ nộp căn cứ vào diện tích nhận khoán và diện tích bờ lô mà bà X đã nhận khoán để nộp tiền thuê đất và Công ty khởi kiện yêu cầu bà X phải nộp tiền thuê đất cho Công ty phần 49% số tiền 5.186.698 đồng, là có căn cứ chấp nhận.

[2.4] Xét yêu cầu khởi kiện về việc chấm dứt hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê số 205a/2011/HĐ-GK, số 205b/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011 giữa bà X với Công ty TNHH MTV cà phê T (nay là Công ty cổ phần cà phê T), thì thấy: Tại điểm f khoản 1 Điều 2 của Hợp đồng quy định về quyền và nghĩa vụ của bên A, thì bên A có quyền “Hủy bỏ hợp đồng giao khoán, thu hồi diện tích giao khoán khi bên nhận khoán vi phạm hợp đồng…”. Tại khoản 5 Điều 6 của hợp đồng quy định về điều khoản cam kết chung có nêu “Trong quá trình thực hiện hợp đồng bên B không hoàn thành chỉ tiêu giao nộp sản phẩm cà phê theo định mức hàng năm, thì bên A có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để thu hồi nợ và đơn phương chấm dứt hợp đồng giao khoán, thu hồi vườn cây cà phê giao khoán, tiến hành giao cho người khác hợp đồng”. Như vậy, việc bà X không đóng sản lượng, không nộp tiền thuê đất cho Công ty, là vi phạm hợp đồng khoán gọn đã ký kết nên Công ty có quyền chấm dứt hợp đồng giao khoán, thu hồi diện tích giao khoán. Do đó, Hội đồng xét xử có căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện chấm dứt hợp đồng, buộc bà X trả lại diện tích nhận khoán là đúng quy định của pháp luật.

- Về giải quyết hậu quả khi chấm dứt hợp đồng giao khoán:

Vào năm 2018 bị đơn bà Lê Thị X đã tự ý nhổ vườn cây cà phê cũ để trồng vườn cây cà phê mới vào năm 2021.

Theo kết quả định giá tài sản: Tổng trị giá 799 cây cà phê trồng năm 1998 (bà X đã tự ý chặt) là 160.917.000 đồng.

Sau khi chặt 799 cây cà phê vối trồng năm 1998, năm 2021 bà X đã trồng lại vườn cây cà phê vối mới với 780 cây (chăm sóc năm thứ 2), có giá là 79.560.000 đồng.

Theo quy định tại Điều 1 của hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê thì “Phần giá trị vườn cây trên đất Công ty góp 51%, chủ hộ góp 49%”. Vì vậy, đối với cây cà phê mà bà X đã tự ý chặt phá năm 2018 thì buộc bà X phải hoàn trả lại trị giá phần 51% cho Công ty. Đối với vườn cây cà phê bà X trồng mới năm 2021, Công ty cổ phần cà phê T đồng ý nhận lại toàn bộ vườn cây cà phê này. Cụ thể:

Bà X có trách nhiệm trả lại cho Công ty cổ phần cà phê T phần 51% trị giá vườn cây cà phê do bà X tự ý chặt vào năm 2018 với số tiền là 82.067.670 đồng.

Công ty cổ phần cà phê T có trách nhiệm trả lại giá trị vườn cây cà phê trên diện tích nhận khoán cho bà X với số tiền là 79.560.000 đồng.

Tại phiên tòa, nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc buộc bà X trả sản lượng cà phê cho Công ty với sản lượng là 270kg cà phê quả tươi (do sơ suất trong việc tính toán số liệu). Nguyên đơn rút 30 % giá trị cây muồng, 49% giá trị vườn cây cà phê, không yêu cầu bà X phải bồi thường. Xét thấy, việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện, đúng pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

[3] Về các chi phí tố tụng: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản là 9.100.000 đồng, số tiền này nguyên đơn đã nộp. Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận, nên căn cứ Điều 157, Điều 165 của Bộ luật tố tụng dân sự thì bị đơn phải chịu chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản. Vì vậy, cần buộc bà Lê Thị X phải trả lại cho nguyên đơn Công ty cổ phần cà phê T số tiền 9.100.000 đồng, là đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

[4] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn bà Lê Thị X phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 600.000 đồng án phí không có giá ngạch và 6.294.153 đồng án phí có giá ngạch. Tổng cộng bà Lê Thị X phải chịu 6.894.153 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

[5] Xét quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk tại phiên tòa là có căn cứ và đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 5, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm c khoản 1 Điều 217, Điều 218, Điều 219, Điều 244, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ các Điều 388, 390, 392, 412, 414, 501, 502, 503, 506 của Bộ luật dân sự năm 2005; điểm c khoản 1 Điều 688 của Bộ luật dân sự năm 2015; Các Điều 7, 8, 9, 10, 12 của Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ; Thông tư số 102/2006/TT-BNN ngày 13 tháng 11 năm 2006 của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn hướng dẫn một số điều của Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ; Luật đất đai năm 2003.

- Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần cà phê T:

- Buộc bà Lê Thị X phải trả cho Công ty cổ phần cà phê T 6.682kg quả cà phê tươi trong 04 niên vụ (2018-2019, 2019-2020, 2020-2021, 2021-2022). Giá trị tại thời điểm xét xử sơ thẩm là 71.960.000đ (bảy mươi mốt triệu chín trăm sáu mươi nghìn đồng).

- Chấm dứt hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên số 205a/2011/HĐ-GK, hợp đồng số 205b/2011/HĐ-GK, ngày 27/8/2011đã ký kết giữa Công ty TNHH MTV cà phê T (nay là Công ty cổ phần cà phê T) và bà Lê Thị X.

Bà Lê Thị X có nghĩa vụ trả lại diện tích đất nhận khoán theo hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên số 205a/2011/HĐ-GK, hợp đồng số 205b/2011/HĐ-GK, ngày 27/8/2011 đã ký kết với Công ty TNHH MTV cà phê T (nay là Công ty cổ phần cà phê T), cụ thể: Diện tích cà phê giao khoán 8.330m2, diện tích bờ lô 1.209m2; thửa đất số 37a, tờ bản đồ số 09, thuộc đội 15/2; địa chỉ: xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; thửa đất có tứ cận:

Phía Bắc giáp: Thửa số 34d, tờ bản đồ số 09, người nhận khoán ông Nguyễn Doãn T; phía Nam giáp: Thửa số 37c, tờ bản đồ số 09, người nhận khoán bà Nguyễn Thị Trà G; phía Đông giáp: Đất thổ cư thôn 15; phía Tây giáp: Thửa số 35, tờ bản đồ số 09, người nhận khoán ông Nguyễn Hưng H.

Công ty cổ phần cà phê T có trách nhiệm trả lại giá trị vườn cây cà phê trên đất cho bà Lê Thị X số tiền là 79.560.000đ (bảy mươi chín triệu năm trăm sáu mươi nghìn đồng).

- Buộc bà Lê Thị X có trách nhiệm trả lại cho Công ty cổ phần cà phê T phần 51% giá trị của vườn cây cà phê do bà Lê Thị X tự ý chặt vào năm 2018 với số tiền là 82.067.670 (tám mươi hai triệu không trăm sáu mươi bảy nghìn sáu trăm bảy mươi đồng).

- Buộc bà Lê Thị X bồi thường cho Công ty cổ phần cà phê T thiệt hại do hành vi chặt phá cây muồng chắn gió và che bóng cho cây cà phê số tiền là 48.736.380đ (bốn mươi tám triệu bảy trăm ba mươi sáu nghìn ba trăm tám mươi đồng).

- Buộc bà Lê Thị X nộp tiền thuê đất cho Công ty cổ phần cà phê T số tiền là 5.186.698đ (năm triệu một trăm tám mươi sáu nghìn sáu trăm chín mươi tám đồng).

Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần cà phê T đối với sản lượng cà phê quả tươi là 270kg; yêu cầu bồi thường giá trị 30% cây muồng đen, 49% giá trị vườn cây cà phê.

2. Về chi phí tố tụng: Buộc bà Lê Thị X phải trả cho Công ty cổ phần cà phê T 9.100.000đ (chín triệu một trăm nghìn đồng) tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản.

Kể từ ngày quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Về án phí:

Bị đơn bà Lê Thị X phải chịu án phí dân sự sơ thẩm: 600.000 đồng án phí không có giá ngạch và 6.294.153 đồng án phí có giá ngạch. Tổng cộng bà Lê Thị X phải chịu 6.894.153đ (sáu triệu tám trăm chín mươi tư nghìn một trăm năm mươi ba đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho Công ty cổ phần cà phê T số tiền 4.111.000đ (bốn triệu một trăm mười một nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 60AA/2021/0009869, ngày 22/12/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện K.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án, hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng giao khoán và yêu cầu bồi thường thiệt hại tài sản số 64/2022/DS-ST

Số hiệu:64/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Pắc - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về