Bản án về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản số 40/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐƠN DƯƠNG – TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 40/2022/DS-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VAY TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 166/2022/TLST-DS ngày 10 tháng 8 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản”.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2022/QĐXXST-DS ngày 14/9/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 36/2022/QĐST-DS ngày 23/9/2022 giữa các đương sự:

1.1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1963; địa chỉ: Số 47, thôn P, xã P, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.

1.2. Bị đơn: Bà Bơ Nhong Nai H, sinh năm 1995; ông K’P, sinh năm 1984; cùng địa chỉ: Số 122, thôn P, xã P, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.

Bà T có mặt, ông K’P, bà Bơ Nhong Nai H vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Do có quen biết nên từ năm 2021 bà Nguyễn Thị T có cho vợ chồng ông K’P và bà Bơ Nhong Nai H vay tiền nhiều lần. Theo Bà T trình bày, thực chất giữa bà và vợ chồng ông K’P, bà Bơ Nhong Nai H có quan hệ thân tình nên có nhờ bà huy động tiền cho ông K’P, bà Bơ Nhong Nai H mượn trả nợ nên không tính lãi. Từ tháng 3/2022 đến tháng 5/2022 bà Bơ Nhong Nai H tự nguyện chuyển khoản số tiền tổng cộng là 78.000.000đ để trả công cho Bà T vì đã mượn tiền giúp. Đến ngày 25/6/2022 các bên cùng thống nhất tính toán các khoản nợ gốc tổng cộng là 896.920.000đ, thỏa thuận thời hạn từ ngày 25/6/2022 đến ngày 10/7/2022 sẻ trả đủ. Khi đến hạn Bà T nhiều lần yêu cầu mà vợ chồng ông K’P và bà Bơ Nhong Nai H không có thiện chí trả nợ nên Bà T khởi kiện buộc vợ chồng ông K’P và bà Bơ Nhong Nai H phải trả tiền 896.920.000đ, không yêu cầu tính lãi.

Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vợ chồng ông K’P, bà Bơ Nhong Nai H vắng mặt, không có lời trình bày, không có ý kiến gì về nội dung vụ án và không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị T thay đổi yêu cầu khởi kiện, tự nguyện khấu trừ số tiền 78.000.000đ bà Nai H đã chuyển khoản cho bà vào số nợ gốc 896.920.000đ nên chỉ yêu cầu ông K’P và bà Bơ Nhong Nai H liên đới có trách nhiệm trả số tiền 818.920.000đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị T khởi kiện tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản, yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng ông K’P và bà Bơ Nhong Nai H phải trả số tiền 896.920.000đ. Đây là tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Tại phiên nguyên đơn bà Nguyễn Thị T thay đổi yêu cầu khởi kiện, tự nguyện khấu trừ số tiền 78.000.000đ mà bà Nai H đã cho thêm vào nợ gốc, chỉ yêu cầu trả số tiền 818.920.000đ. Xét việc thay đổi yêu cầu khởi kiện không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu theo quy định tại khoản 1 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự nên được chấp nhận để xem xét.

Quá trình giải quyết vụ án vợ chồng ông K’P và bà Bơ Nhong Nai H đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung cần giải quyết của vụ án:

[2.1] Về quan hệ tranh chấp: Theo đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ thể hiện bà Nguyễn Thị T khởi kiện vợ chồng ông K’P và bà Bơ Nhong Nai H yêu cầu trả nợ theo giấy mượn tiền ngày 25/6/2022 nên xác định đây là quan hệ “Tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản”.

[2.2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Xét nội dung giấy mượn tiền ngày 25/6/2022 thể hiện bà Nguyễn Thị T có cho vợ chồng ông K’P, bà Bơ Nhong Nai H mượn số tiền 896.920.000đ, không thỏa thuận về lãi suất, thời hạn vay từ ngày 25/6/2022 đến ngày 10/7/2022, có chữ ký và điểm chỉ xác nhận của bên vay. Khi kết thúc thời hạn Bà T nhiều lần yêu cầu trả nợ nhưng bị đơn không trả mà hứa hẹn nhiều lần. Từ tháng 3/2022 đến tháng 5/2022 Bà T đã nhận từ bà Nai H số tiền 78.000.000đ trả công mượn tiền giúp. Nay bà tự nguyện khấu trừ số tiền này nên chỉ yêu cầu bị đơn trả 818.920.000đ.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và Thông báo về kết quả kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ của vụ án nhưng đến nay bị đơn cũng không có lời trình bày hoặc văn bản nào phản bác lại yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Khi hợp đồng mượn tiền các bên không có thỏa thuận về lãi trong giấy mượn tiền, cũng không có căn cứ để làm rõ các bên có thỏa thuận nào khác về lãi suất, tại phiên tòa bị đơn vắng mặt nên cũng không thể đối chất làm rõ. Từ đó, có căn cứ chứng minh nội dung tranh chấp hợp đồng vay tài sản là có thật và có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc trả nợ gốc.

Về xác định nghĩa vụ trả nợ: Khoản vay 896.920.000đ trong thời gian ông K’P và bà Bơ Nhong Nai H đang tồn tại quan hệ hôn nhân và đều tham gia giao dịch, cam kết chịu trách nhiệm trả nợ, do đó cần xác định ông K’P và bà Bơ Nhong Nai H trong có nghĩa vụ liên đới trả nợ nói trên cho bà Nguyễn Thị T.

[3] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được Hội đồng xét xử chấp nhận nên bị đơn phải nộp toàn bộ án phí tương ứng với giá trị tài sản tranh chấp.

[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;

các Điều 91, 92, 144, 147; khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ khoản 2 Điều 357; các Điều 468, 471 của Bộ luật dân sự năm 2015; Căn cứ khoản 4 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Buộc bị đơn ông K’ Phú và bà Bơ Nhong Nai H liên đới có trách nhiệm trả cho bà Nguyễn Thị T số tiền 818.920.000đ (tám trăm mười tám triệu chín trăm hai mươi nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả chongười được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Về án phí: Buộc bị đơn ông K’ Phú và bà Bơ Nhong Nai H phải nộp số tiền 36.567.000đ án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị T số tiền 19.453.800đ tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004045 ngày 09/8/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng.

3. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thị hành án dân sự: thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

99
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản số 40/2022/DS-ST

Số hiệu:40/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đơn Dương - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về