TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 489/2023/DS-PT NGÀY 27/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 27/9/2023, tại trụ sở TAND Thành phố H Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 185/2023/DSPT ngày 10/5/2023 về: “Tranh chấp hợp đồng CNQSDĐ”. Do bản án dân sự sơ thẩm số 31/2023/DS-ST ngày 24/2/2023 của TAND huyện Đông Anh, H Nội bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 364/2023/QĐXX- PT ngày 04/8/2023 và Thông báo mở lại phiên tòa giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Khắc S, sinh năm 1952. Trú tại: Thôn V, xã X, huyện Đông Anh, H Nội. Người đại diện theo ủy quyền của ông S là ông Phạm Quang H. Trú tại: M, Đông Anh, H Nội. Có mặt ông H; vắng mặt ông S.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho ông S: Luật sư Lê Văn T, Công ty Luật Hợp danh B – Đoàn luật sư Thành phố H Nội. Địa chỉ: Xóm 1 L, xã Đ, huyện H, H Nội. Có mặt.
2. Bị đơn: Ông Hoàng Kim H, sinh năm 1954. Trú tại: Số 47 đường H, phường P, quận Hai Bà Trưng, H Nội. Có mặt.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ông H là: Các Luật sư Ngô Thành B, Nguyễn Văn N – Thuộc Công ty luật TNHH N, Đoàn luật sư Thành phố H Nội. Địa chỉ: Tầng 6 tòa nhà H nhà báo Việt Nam, đường D, phường Y, quận Cầu Giấy, H Nội. Có mặt Luật sư B.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1960 (Vợ ông S). Trú tại: Thôn V, xã X, huyện Đông Anh, H Nội. Người đại diện theo ủy quyền của bà T là ông Nguyễn Văn C. Trú tại: Tổ 3, cụm 5, K, Thanh Xuân, H Nội. Có mặt ông C, vắng mặt bà T.
3.2. Ông Nguyễn Khắc T, sinh năm 1948;
3.3. Bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1955;
3.4. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1959.
Cùng trú tại: Thôn V, xã X, huyện Đông Anh, H Nội.
3.5. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1955. Trú tại: Thôn V, xã X, huyện Đông Anh, H Nội.
Người đại diện theo ủy quyền của ông T và các bà: X, H, H là: Ông Dương Văn KH. Trú tại: U14 L11 KĐT Đô Nghĩa, phường Yên Nghĩa, quận H Đông, H Nội. Có mặt ông KH; vắng mặt ông T và các bà X, H, H.
3.6. Bà Thịnh Thị Q, sinh năm 1978.
3.7. Ông Hoàng N Khoát, sinh năm 1976 (Chồng bà Q).
Cùng trú tại: Xóm Trại, thôn Đ, xã K, huyện Đông Anh, H Nội.
3.8. Bà Đỗ Thị H, sinh năm 1983.
3.9. Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1981 (Chồng bà H).
Cùng trú tại: Thôn V, xã X, huyện Đông Anh, H Nội.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Khoát, bà H, ông Q là bà Thịnh Thị Q. Có mặt bà Q; vắng mặt ông Khoát, bà H, ông Q.
3.10. Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1962. Trú tại: Thôn Đ, xã Đ, huyện Đ, H Nội. Có mặt.
3.11. Bà Ngô Thị L, sinh năm 1960 (Vợ ông Hoàng Kim H). Trú tại: Thôn Lực Canh, xã X, huyện Đông Anh, H Nội.
3.12. Ông Đinh Phú C, sinh năm 1946.
3.14. Bà Hoàng Thị T, sinh năm 1947 (Vợ ông C) 3.15. Bà Hoàng Y (tức Hoàng Thị Y), sinh năm 1964.
Đều Trú tại: Số 41 Châu Long, phường T, quận B Đình, H Nội. Người đại diện theo ủy quyền của ông C và các bà L, T, Y là ông Hoàng Kim H. Có mặt ông H; vắng mặt ông C và các bà L, T, Y.
3.16. Bà Hoàng Thị Thanh H, sinh năm 1956. Trú tại: Số 22, ngách 50/23 đường Đặng Thai Mai, phường Quảng An, quận Tây Hồ, H Nội. Người đại diện theo ủy quyền của bà H là ông Hoàng Thanh Bình, sinh năm 1964. Trú tại: Số 55D Hng Bài, phường H, quận Hoàn Kiếm, H Nội. Có mặt ông Bình; vắng mặt bà H.
4. Người kháng cáo:
4.1. Ông Nguyễn Khắc S là nguyên đơn. Ông S vắng mặt; có mặt người đại diện theo ủy quyền và Luật sư bảo vệ quyền lợi cho ông S.
4.2. Ông Hoàng Kim H là bị đơn. Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo hồ sơ vụ án, tại cấp sơ thẩm;
1. Nguyên đơn ông Nguyễn Khắc S trình bày:
Bố ông là cụ Nguyễn Khắc Lĩnh (đã chết năm 1967), mẹ ông là cụ Nguyễn Thị Đa (đã chết năm 1995). Bố mẹ ông sinh được 05 người con gồm: Ông Nguyễn Khắc T, ông Nguyễn Khắc S, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị X, bà Nguyễn Thị H. Ngoài ra bố, mẹ ông không có con đẻ, con nuôi, con riêng nào khác. Ông bà nội, ngoại của ông đều đã chết trước bố mẹ ông. Thửa đất số 41, tờ bản đồ số 29, diện tích 870 m2 ở thôn V, xã X, huyện Đông Anh, H Nội (sau đây viết tắt la thưa đất số 41) có nguồn gốc là của bố mẹ ông, chưa phân chia cho ai. Do trước khi chết bố mẹ ông không để lại di chúc nên sau khi mẹ ông chết thì đến năm 1998; năm anh, chị, em trong gia đình ông đã lập văn bản chia thửa đất số 41 cho mỗi người 175 m2. Văn bản này có đầy đủ chữ ký của 05 anh, chị, em.
Ngày 11/8/2001, vợ chồng ông đã tự chuyển nhượng cho bà Hoàng Thị Thanh H toàn bộ thửa đất số 41 với giá 15.000.000 đồng. Hai bên đã lập hợp đồng chuyển nhượng viết tay, không có công chứng, chứng thực. Bà H đã trả ông 13.000.000 đồng, còn thiếu 2.000.000 đồng. Ông chưa bàn giao đất cho bà H. Hai bên không tiếp tục thực hiện hợp đồng, nên ông đề nghị hủy hợp đồng chuyển nhượng giữa ông và bà H. Vợ chồng ông sẽ trả lại bà H 13.000.000 đồng đã nhận và lãi suất theo lãi suất Ngân hàng.
Cuối năm 2001. Ông Hoàng Kim H là người cùng xã cho vợ chồng ông vay 28.000.000 đồng (03 lần). Tài sản bảo đảm cho số tiền vay là thửa đất số 41, được thể hiện dưới hình thức: Vợ chồng ông ký Văn tự chuyển nhượng thửa đất số 41 cho vợ chồng ông H. Khi đó ông cũng đã nói rõ với ông H là thửa đất số 41 thuộc quyền sử dụng chung của 05 anh chị em ông chứ không phải của một mình ông, nhưng ông H trả lời là: Vợ chồng ông cứ ký vào đây, mọi thủ tục giấy tờ khác ông H sẽ lo. Ông T và các bà H, X, H không hề biết việc làm này của vợ chồng ông.
Năm 2003, ông H đến nhà ông T bảo ông T ký vào văn tự chuyển nhượng quyền sở hữu đất mà vợ chồng ông lập cùng vợ chồng ông H năm 2001. Khi đó, ông T cùng các em ông mới biết và không đồng ý vì thửa đất số 41 là tài sản thừa kế chung của 05 anh chị em ông; đã được lập biên bản họp gia đình phân chia từ năm 1998. Do đó, ông T đã làm đơn khởi kiện đến TAND huyện Đông Anh. Tòa án tiến hành hòa giải, hai bên đã thống nhất rút đơn để tự hòa giải. Sau đó, ông đã chủ động gặp ông H, đề nghị được trả lại ông H 28.000.000 đồng tiền gốc và tiền lãi với tổng số tiền khoảng 60.000.000 đồng nhưng ông H không đồng ý. Thửa đất số 41 từ trước đến nay vẫn do 05 anh chị em ông quản lý, sử dụng và thực hiện nghĩa vụ tài chính về thuế với Nhà nước theo quy định.
Đến năm 2017, năm anh chị em ông đã được Văn phòng đăng ký đất đai H Nội - Chi nhánh huyện Đông Anh cấp Giấy xác nhận đăng ký đất đai đối với thửa đất số 41 (mỗi người 175 m2).
Tháng 5 năm 2019, ông T và các bà H, X, H đã lập Vi bằng chuyển nhượng phần diện tích đất thuộc quyền sử dụng của họ cho ông P, bà Q, bà H. Năm 2020, bên nhận chuyển nhượng đã nhận đất và tiến hành xây dựng nhà ở cấp 4, các công trình phụ trợ khác, trồng cây trên phần diện tích nhận chuyển nhượng tại thửa đất số 41. Ông H làm đơn đề nghị UBND xã X giải quyết. Ngày 23/9/2020, UBND xã X tiến hành hòa giải nhưng không thành.
Ngày 02/10/2021, UBND xã X tiếp tục tổ chức hội nghị làm việc giữa vợ chồng ông với ông H. H nghị đã mời ông T; các bà H, X, H; ông P và bà Q cùng tham dự. Tại hội nghị, ông đã trình bày: Thửa đất số 41 là di sản thừa kế của bố mẹ ông để lại cho năm anh chị em ông, ông chỉ có quyền sử dụng 1/5 diện tích thửa đất trên, phần của ông đã được tách thành khuôn viên riêng.
Để đảm bảo quyền lợi của ông P, bà Q, bà H và bảo đảm uy tín, danh dự của người thân trong gia đình. Ông T; các bà H, X, H đã đề nghị:
- Hủy Hợp đồng chuyển nhượng đất lập ngày 11/08/2001 giữa vợ chồng ông với bà H liên quan đến thửa đất số 41.
- Hủy Văn tự chuyển nhượng sở hữu đất lập ngày 19/12/2001 giữa vợ chồng ông với vợ chồng ông H liên quan đến thửa đất số 41 và giải quyết tranh chấp giữa ông với ông H theo quy định. Ông và ông H đều có lỗi khi ký hợp đồng chuyển nhượng đất này, vì vậy ông có thiện chí đề nghị công nhận phần đất của ông được chia trong thửa đất số 41 (phần còn lại sau khi ông T, các bà H, X, H đã bán cho bà Q, bà H và ông P), ông sẽ bàn giao phần đất của ông được chia cho ông H để giải quyết hậu quả của hợp đồng. Ông không nhất trí với yêu cầu phản tố của ông H. Ông nhất trí với yêu cầu độc lập của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông T, bà X, bà H, bà H.
2. Bị đơn (có yêu cầu phản tố) ông Hoàng Kim H trình bày:
Năm 2001, vợ chồng ông nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông S, bà T thửa đất số 41. Hai bên đã lập “Văn tự chuyển nhượng quyền sở hữu đất” ngày 19/12/2001, có người làm chứng là ông Nguyễn Khắc Hoàn. Vợ chồng ông đã thanh toán đầy đủ cho vợ chồng ông S 28.000.000 đồng. Do vợ chồng ông sống ở xa, chỉ thi thoảng đến thửa đất đã mua để thăm nom, nên gia đình ông S đã san lấp mặt bằng, xây dựng nhà và công trình trên đất đã chuyển nhượng cho vợ chồng ông. Sau đó, ông được biết các anh chị em của ông S đã chuyển nhượng phần lớn diện tích đất nêu trên cho người khác. Điều này đã làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng ông.
Nay ông S khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy “Văn tự chuyển nhượng quyền sở hữu đất” ngày 19/12/2001, ông không đồng ý. Ông đề nghị Tòa giải quyết:
- Buộc vợ chồng ông S pH bàn giao toàn bộ diện tích đất đã chuyển nhượng cho vợ chồng ông theo “Văn tự chuyển nhượng quyền sở hữu đất” ngày 19/12/2001 và hoàn tất thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- T hợp Tòa án xác định “Văn tự chuyển nhượng quyền sở hữu đất” ngày 19/12/2001 vô hiệu, ông yêu cầu Tòa án xác định yếu tố lỗi và thiệt hại thực tế xảy ra thuộc vợ chồng ông S và buộc vợ chồng ông S pH bồi toàn bộ thường thiệt hại cho vợ chồng ông.
- Đối với yêu cầu độc lập của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông T và các bà H, X, H với ông P, bà Q, bà H thì ông không nhất trí, vì xâm phạm đến quyền lợi của ông. Đề nghị hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa giữa ông T và các bà H, X, H với ông P, bà Q, bà H .
- Hợp đồng chuyển nhượng đất giữa vợ chồng ông S với bà H ngày 11/8/2001, ông không hề biết, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Sau khi ông nhận chuyển nhượng thửa đất số 41 với vợ chồng ông S, ông đã lập biên bản chuyển nhượng một phần thửa đất đó cho các anh em của ông là bà Hoàng Thị Y và với vợ chồng ông Đinh Phú C nhưng ông không đề nghị Tòa án giải quyết các hợp đồng chuyển nhượng này. Anh em ông sẽ tự thỏa thuận giải quyết với nhau. Nếu có tranh chấp thì sẽ giải quyết bằng một vụ kiện dân sự khác.
3.Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
3.1. Bà Nguyễn Thị H có yêu cầu độc lập trình bày:
Xác định quan hệ huyết thống và nguồn gốc diễn biến quản lý, sử dụng và tự phân chia thừa kế thửa đất số 41 đúng như nguyên đơn trình bày.
Năm 2003, ông H có đến nhà ông T bảo ký vào “Văn tự chuyển nhượng quyền sở hữu đất” mà vợ chồng ông S, bà T xác lập cùng vợ chồng ông H năm 2001. Khi đó, bốn anh chị em bà mới biết và không đồng ý ký vì thửa đất số 41 là di sản thừa kế của 05 anh chị em và đã được xác lập biên bản họp gia đình phân chia quyền sử dụng thửa đất từ năm 1998. Do đó, ông T đã làm đơn khởi kiện đến TAND huyện Đông Anh. Tòa án đã tiến hành hòa giải, hai bên đã thống nhất rút đơn để tự hòa giải. Sau đó, ông S đã chủ động gặp ông H, đề nghị trả lại ông H 28.000.000 đồng tiền gốc và tiền lãi với tổng số tiền khoảng 60.000.000 đồng nhưng ông H không đồng ý.
Thửa đất số 41, năm anh chị em bà vẫn quản lý, sử dụng và thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước theo quy định. Đến năm 2017, năm anh chị em bà đã được Văn phòng đăng ký đất đai H Nội - Chi nhánh huyện Đông Anh cấp Giấy xác nhận đăng ký đất đai. Do anh chị em bà cần tiền nên 04 anh chị em bà đã chuyển nhượng 693m2 là phần đất của bà, ông T, bà X, bà H tại thửa đất số 41 cho ông P, bà Q, bà H với giá 6.505.600.000 đồng. Bốn anh chị em bà đã nhận của ông P, bà Q, bà H 6.000.000.000 đồng thông qua hình thức chuyển tiền vào tài khoản. Hai bên cam kết thống nhất số tiền 505.600.000 đồng còn lại bên nhận chuyển nhượng sẽ thanh toán nốt cho anh chị em bà sau khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bên nhận chuyển nhượng. Việc chuyển nhượng 693m2 tại thửa đất số 41 giữa bà, ông T, bà X, bà H với ông P, bà Q, bà H đã được Văn phòng thừa phát lại quận Nam Từ Liêm lập Vi bằng số 610/2019/VB-TPLQNTL ngày 09/5/2019. Anh chị em bà đã bàn giao đất cho ông P, vợ chồng bà Q, vợ chồng bà H quản lý, sử dụng từ ngày 09/5/2019 đến nay. Hiện họ đã xây tường bao, làm nhà cấp 4, các công trình phụ trợ khác và trồng cây trên thửa đất.
Ngày 02/10/2020, UBND xã X có mời anh chị em bà tham dự hội nghị làm việc giữa vợ chồng ông S với ông H. Bà tham gia và bà đã trình bày:
+ Thửa đất số 41 là di sản thừa kế của năm anh chị em bà. Năm 1998, đã thống nhất chia mỗi người một phần; năm 2017 đã được cấp Giấy xác nhận đăng ký đất đai riêng biệt cho từng người. Việc ký văn tự chuyển nhượng quyền sở hữu đất lập ngày 19/12/2001 giữa vợ chồng ông S với vợ chồng ông H là không hợp pháp, không đúng theo quy định của pháp luật.
+ Phần diện tích đất của bà, ông T, bà X, bà H đã chuyển nhượng cho ông P, bà Q, bà H không liên quan gì đến phần diện tích đất của ông S. Phần đất của ông S đã được tách riêng.
+ Việc anh, chị em bà chuyển nhượng đất cho ông P, vợ chồng bà Q, vợ chồng bà H là có thật và hoàn toàn tự nguyện. Anh chị em bà đã nhận tiền, bàn giao đất cho họ quản lý, sử dụng. Nay anh, chị em bà không còn quyền lợi gì đối với phần diện tích đã chuyển nhượng cho họ nữa; quyền sử dụng đất là của họ. Nay bà đề nghị Tòa án giải quyết:
- Hủy Văn tự chuyển nhượng sở hữu đất lập ngày 19/12/2001 giữa vợ chồng ông S với vợ chồng ông Hoàng Kim H. Công nhận việc mua bán, chuyển nhượng đất giữa ông T, bà H, bà X, bà H với ông P, bà Q, bà H là hợp pháp; ông P, bà Q, bà H có quyền đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho họ và bảo vệ quyền sử dụng đất của họ. Đối với hợp đồng chuyển nhượng đất của vợ chồng ông S với bà H bà không hề biết, bà không có ý kiến gì.
3.2. Ông T, bà X, bà H đều có yêu cầu độc lập và có quan điểm như bà H đã trình bày.
3.3. Bà Q đồng thời là đại diện theo ủy quyền của ông Khoát (chồng bà) và vợ chồng bà H trình bày: Bà cùng ông P và bà H nhận chuyển nhượng quyền sử dụng 693m2 tại thửa đất số 41 của ông T, bà H, bà X, bà H và đã thanh toán tiền, bàn giao đất đúng như bà H trình bày. Hai bên cam kết, số tiền 505.600.000 đồng còn lại bên nhận chuyển nhượng sẽ thanh toán nốt cho bên chuyển nhượng sau khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi giao dịch chuyển nhượng bên mua được biết nguồn gốc thửa đất số 41 là di sản thừa kế của cụ Lĩnh và cụ Đa để lại cho 5 người con là ông T, ông S, bà H, bà X, bà H. Họ đã cùng nhau xác lập văn bản phân chia quyền sử dụng đất năm 1998, đã được Văn phòng đăng ký đất đai H Nội - Chi nhánh huyện Đông Anh cấp giấy xác nhận đăng ký đất đai từ năm 2017. Ngày 02/10/2020, UBND xã X đã mời bà, ông P và bà H tham dự hội nghị làm việc giữa vợ chồng ông S với ông H. Tại hội nghị, bà đã trình bày quan điểm như sau:
Bà, ông P và bà H nhận chuyển nhượng đất của ông T, bà H, bà X, bà H chứ không mua đất của ông S. Phần của ông S đã được tách riêng. Bên nhận chuyển nhượng không liên quan gì đến việc mua bán đất giữa ông S và ông H; giữa ông T, bà H, bà X, bà H với bà, ông P và bà H không có tranh chấp, mâu thuẫn gì. Đề nghị Tòa án công nhận công nhận việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông T, bà H, bà X, bà Hộ với bà, ông P và bà H là hợp pháp và đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà, ông P và bà H để bảo đảm quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
3.4. Người đại diện theo ủy quyền của bà H là ông Bình trình bày:
Ngày 11/8/2001, bà H nhận chuyển nhượng toàn bộ thửa đất số 41 của vợ chồng ông S. Hai bên lập giấy viết tay đúng như ông S trình bày. Bà H không nhất trí với yêu cầu của ông S về việc hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà H và ông S. Đề nghị vợ chồng ông S pH tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng đã ký ngày 11/08/2001. Đối với các Hợp đồng chuyển nhượng của thửa đất được lập sau này có ảnh hưởng đến quyền lợi của bà H thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Bản án dân sự sơ thẩm số 31/2023/DSST ngày 24/2/2023, TAND huyện Đông Anh, H Nội, quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Khắc S đối với ông Hoàng Kim H, bà Hoàng Thị Thanh H về việc hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất liên quan đến thửa đất số 41, tờ bản đồ số 29 tại thôn V, xã X, huyện Đông Anh, Thành phố H Nội.
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Hoàng Kim H về việc tiếp tục thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Hoàng Kim H với vợ chồng ông Nguyễn Khắc S và hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Khắc T, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị X, bà Nguyễn Thị H với bà Thịnh Thị Q, ông Nguyễn Văn P, bà Đỗ Thị H liên quan đến thửa đất số 41, tờ bản đồ số 29 tại thôn V, xã X, huyện Đông Anh, H Nội.
3. Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Khắc T, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị X, bà Nguyễn Thị H với bà Thịnh Thị Q, ông Nguyễn Văn P, bà Đỗ Thị H liên quan đến thửa đất số 41, tờ bản đồ số 29 tại thôn V, xã X, huyện Đông Anh, H Nội.
4. Tuyên “Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng và sở hữu đất” lập ngày 11/08/2001 giữa vợ chồng ông Nguyễn Khắc S với bà Hoàng Thị Thanh H liên quan đến thửa đất số 41, tờ bản đồ số 29 tại thôn V, xã X, huyện Đông Anh, H Nội là vô hiệu toàn bộ.
Tuyên hủy “Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng và sở hữu đất” lập ngày 11/08/2001 giữa vợ chồng ông Nguyễn Khắc S với bà Hoàng Thị Thanh H liên quan đến thửa đất số 41, tờ bản đồ số 29 tại thôn V, xã X, huyện Đông Anh, H Nội.
5. Tuyên “Văn tự chuyển nhượng sở hữu đất” lập ngày 19/12/2001 giữa vợ chồng ông Nguyễn Khắc S với vợ chồng ông Hoàng Kim H liên quan đến thửa đất số 41, tờ bản đồ số 29 tại thôn V, xã X, huyện Đông Anh, H Nội là vô hiệu toàn bộ.
Tuyên hủy “Văn tự chuyển nhượng sở hữu đất” lập ngày 19/12/2001 giữa vợ chồng ông Nguyễn Khắc S với vợ chồng ông Hoàng Kim H liên quan đến thửa đất số 41, tờ bản đồ số 29 tại thôn V, xã X, huyện Đông Anh, H Nội.
6. Tuyên “Văn bản thỏa thuận về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 09/5/2019” giữa ông Nguyễn Khắc T, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị X, bà Nguyễn Thị H với ông Nguyễn Văn P, vợ chồng bà Thịnh Thị Q, vợ chồng bà Đỗ Thị H có hiệu lực pháp luật.
7. Ông Nguyễn Văn P, vợ chồng bà Thịnh Thị Q và vợ chồng bà Đỗ Thị H có quyền sử dụng chung 674,9 m2 đất và sở hữu toàn bộ tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 41, tờ bản đồ số 29 tại: Thôn V, xã X, huyện Đông Anh, H Nội.
8. Ông Nguyễn Khắc S có quyền sử dụng 191,9 m2 đất tại thửa đất số 41, tờ bản đồ số 29 tại: Thôn V, xã X, huyện Đông Anh, H Nội.
9. Buộc vợ chồng ông Nguyễn Khắc S pH có nghĩa vụ trả bà Hoàng Thị Thanh H số tiền là 11.591.500.000 đồng (Mười một tỷ, năm trăm chín mươi mốt triệu, năm trăm nghìn đồng).
10. Buộc vợ chồng ông Nguyễn Khắc S pH có nghĩa vụ trả vợ chồng ông Hoàng Kim H số tiền là 11.599.000.000 đồng (Mười một tỷ, năm trăm chín mươi chín triệu đồng).
11. Ông Nguyễn Văn P, vợ chồng bà Thịnh Thị Q, vợ chồng bà Đỗ Thị H, ông Nguyễn Khắc S có quyền liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với thửa đất số 41, tờ bản đồ số 29 tại thôn V, xã X, huyện Đông Anh, thành phố H Nội theo quy định của pháp luật.
(Có hồ sơ kỹ thuật thửa đất kèm theo bản án).
12. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Khắc T, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị X, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Văn P, bà Thịnh Thị Q, bà Đỗ Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết số tiền còn thiếu theo hợp đồng chuyển nhượng đất là 505.600.000 đồng.
13. Ghi nhận sự tự nguyện của vợ chồng ông Hoàng Kim H và bà Hoàng Thị Y không yêu cầu Tòa án giải quyết “Giấy biên nhận nhượng quyền sở hữu đất” ngày 25/05/2002 giữa vợ chồng ông Hoàng Kim H với bà Hoàng Thị Y liên quan đến thửa đất số 41, tờ bản đồ số 29 tại thôn V, xã X, huyện Đông Anh, thành phố H Nội.
14. Ghi nhận sự tự nguyện của vợ chồng ông Hoàng Kim H và vợ chồng ông Đinh Phú C không yêu cầu Tòa án giải quyết “Bản cam kết nhượng quyền sở hữu đất” ngày 15/02/2002 giữa vợ chồng ông Hoàng Kim H với vợ chồng ông Đinh Phú C liên quan đến thửa đất số 41, tờ bản đồ số 29 tại thôn V, xã X, huyện Đông Anh, thành phố H Nội.
Ngoài ra bản án còn tuyên về nghĩa vụ do chậm thi hành án; Quyết định về án phí sơ thẩm; Quyền thỏa thuận thi hành án và quyền kháng cáo của đương sự.
* Không đồng ý với bản án sơ thẩm: Ông S là nguyên đơn; ông H là bị đơn, kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Luật sư T bảo vệ quyền lợi cho ông S trình bày tranh luận:
Thửa đất số 41 là di sản thừa kế của bố mẹ ông S để lại cho anh chị em; ông S tự giao dịch chuyển nhượng toàn bộ thửa đất số 41 cho bà H không được sự đồng ý của ông T và các bà H, X, H là không đúng. Cấp sơ thẩm tuyên “Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng và sở hữu đất” lập ngày 11/08/2001 giữa vợ chồng ông S với bà H liên quan đến thửa đất số 41 vô hiệu toàn bộ là đúng. Tuy nhiên cấp sơ thẩm buộc ông bồi thường thiệt hại 50% của thửa đất số 41 là không đúng; ông S kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm xem xét lại mức bồi thường vì ông S mới nhận của bà H 13.000.000 đồng/15.000.000 đồng (giá trị của toàn bộ thửa đất). Sau khi đã giao dịch chuyển nhượng cho bà H, bà H chưa nhận bàn giao và chưa quản lý thửa đất số 41. Do ông vay tiền của ông H nên ngày 19/12/2001, vợ chồng ông S tiếp tục lập văn tự chuyển nhượng thửa đất số 41 (viết tay, không có công chứng, chứng thực, không có sự đồng ý của ông T và các bà H, X, H). Nay cấp sơ thẩm tuyên văn bản chuyển nhượng này vô hiệu nhưng buộc vợ chồng ông pH trả ông H tổng số tiền là 11.599.000.000 đồng là không đúng. Do vậy ông S kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm xem xét chỉ buộc vợ chồng ông thanh toán cho H 28.000.000 đồng tiền gốc và lãi suất theo ngân hàng.
Người đại diện theo ủy quyền của ông S nhất trí toàn bộ quan điểm trình bày của Luật sư T.
- Luật sư B bảo vệ quyền lợi cho ông Hoàng Kim H trình bày tranh luận:
Đề nghị cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm. Vì cấp sơ thẩm chưa làm rõ:
- Lý do năm 2003 ông T rút đơn khởi kiện đối với ông S, ông H. Thời điểm đó ông T, các bà H, X, H đều biết ông S đã bán đất cho ông H; khi ông T rút đơn khởi kiện thì các bà H, X, H và ông S không kháng cáo tức là đồng ý với việc ông S bán đất cho ông H.
+ Hồ sơ không thể hiện nguồn gốc thửa đất số 41 là của cụ Lĩnh, cụ Đa.
+ Sổ mục kê ruộng đất không có tên chủ hộ là cụ Lĩnh, cụ Đa.
+ Ông S co dấu hiêu hanh vi hinh sư khi khăng điṇ h la chu sơ hưu thưa đất số 41 và 04 anh chi ̣em cua ông S biết ông S đã bán thưa đất số 41 cho ông H tư 21 năm trươc, không phan đối đã rut đơn khơi kiên nhưng vẫn chuyên nhương cho ông P, ba Huế, ba Q.
Viêc thanh toan gia tri ̣06 ty đồng diên tich đất ma ông T, các bà H, X, H ban đất cho ông P, ba Huế, ba Q ghi nhân trong vi bằng nhưng trong hồ sơ chưa co tai liêu chưng minh viêc thanh toan đê xac điṇ h đây la hơp đồng chuyên nhương thât hay gia cach. Đề nghi ̣ huy an sơ thâm chuyển hồ sơ sang Cơ quan điều tra về việc ông S lừa đảo ông H.
Ông H trình bày: Nhất trí với quan điểm trình bày tranh luận của Luật sư B. Bổ sung thêm: Ông mua đất của ông S chứ không cho ông S vay tiền; ông là người thường xuyên qua lại nhà ông S nên biết thửa đất số 41 là của gia đình ông S. Ông chơi thân với ông Nguyễn Khắc Hoàn là chú ruột ông S. Ông Hoàn hứa là sẽ nói với gia đình ông S đồng thuận bán cho ông thửa đất số 41 với giá 28.000.000 đồng do đó ông tin tưởng và nhận chuyển nhượng thửa đất số 41 theo “Văn tự chuyển nhượng sở hữu đất” ngày 19/12/2001; ông đã nhận đất đã đóng khoảng 40 cột bê tông, làm hàng rào dây thép gai. Do ở xa ông không thường xuyên quản lý đất nên đã bị chiếm dụng xây dựng một số công trình trên đất và bị phá dỡ hàng rào, cột bê tông ông đã xây dựng nhưng ông không yêu cầu bồi thường. Nếu Tòa cấp phúc thẩm không hủy bản án sơ thẩm thì đề nghị Tòa án buộc ông S bồi thường 100% thiệt hại do Hợp đồng vô hiệu vì ông không có lỗi.
Ông Bình đại diện theo ủy quyền của bà H trình bày: Bà H không kháng cáo. Giữ nguyên các ý kiến đã trình bày tại cấp sơ thẩm.
Ông KH đại diện theo ủy quyền của ông T, các bà H, X, H trình bày: Ông T, các bà H, X, H nhất trí với bản án sơ thẩm nên không kháng cáo. Giữ nguyên các ý kiến đã trình bày tại cấp sơ thẩm.
Bà Q đồng thời là đại diện theo ủy quyền của ông Khoát, bà H, ông Q trình bày: Bà và ông Khoát, bà H, ông Q nhất trí với bản án sơ thẩm nên không kháng cáo. Giữ nguyên các ý kiến đã trình bày tại cấp sơ thẩm.
Ông P trình bày: Ông nhất trí với bản án sơ thẩm nên không kháng cáo. Giữ nguyên các ý kiến đã trình bày tại cấp sơ thẩm.
Ông C đại diện theo ủy quyền của bà T trình bày: Bà T không kháng cáo. Giữ nguyên các ý kiến đã trình bày tại cấp sơ thẩm.
Ông H đại diện theo ủy quyền của ông Đinh Phú C và các bà L, T, Y trình bày: Ông Đinh Phú C và các bà L, T, Y nhất trí với bản án sơ thẩm nên không kháng cáo. Giữ nguyên các ý kiến đã trình bày tại cấp sơ thẩm.
Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa; không kháng cáo, không gửi văn bản bổ sung ý kiến, quan điểm với H đồng xét xử phúc thẩm.
Các đương sự có mặt tại phiên tòa không thỏa thuận được với nhau về cách giải quyết vụ toàn bộ án.
* Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu:
- Về tố tụng: H đồng xét xử, thư ký phiên tòa và các đương sự đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo đúng quy định Bộ luật tố tụng dân sự.
- Người kháng cáo thực hiện quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.
- Về nội dung:
Về kháng cáo của các đương sự.
Cấp sơ thẩm xác định Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng và sở hữu đất ngày 11/8/2001 giữa vơ chồng ông S với bà H và Văn tự chuyển nhượng quyền sở hữu đất ngày 19/12/2001 giữa vơ chồng ông S với vơ chồng ông H là vô hiêu toan bô; giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu mỗi bên là 50% là đúng quy định pháp luật. Thời điểm chuyển nhượng quyền sử dụng đất các bên đều xác định là đất thổ cư. Theo UBND xã X cung cấp thì từ năm 1996 thửa đất số 41 thể hiện trên bản đồ là đất thổ cư. Cấp sơ thẩm căn cứ điểm đ khoản 4 quyết định 20/2017/QĐ- UBND ngày 1/6/2017 của UBNDTP H Nội và phụ lục bảng phân loại các xã để xác định hạn mức đất ở 300m2 là có căn cứ và đúng pháp luật.
Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng và sở hữu đất ngày 11/8/2001 giữa vơ chồng ông S với bà H; các bên thỏa thuận chuyển nhượng thửa đất này (số đo hiện tại là 866,8m2) với giá 15.000.000 đồng. Bà H mới trả 13.000.000đ nên tương đương 751,2m2 đất. Vì vậy thiệt hại trong vụ án này được tính trên diện tích đất bà H đã trả là 751,2m2. Bản án sơ thẩm xác định thiệt hại trên tổng diện tích 866,8m2 là thiệt thòi cho ông S.
Cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu độc lập của ông T, bà H, bà X, bà H về việc công nhận chuyển nhượng đất giữa ông T, bà H, bà X, bà H với ông P, bà Q, bà H là có căn cứ.
Đề nghị H đồng xét xử. Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự: Sửa bản án sơ thẩm số 31/2022/DS-STcủa TAND huyện Đông Anh theo hướng:
- Xác định diện tích chuyển nhượng giữa vợ chồng ông S với bà H là 751,2m2. Diện tích chuyển nhượng giữa vợ chồng ông S với ông H là 863,2m2.
- Các nội dung khác của bản án sơ thẩm đề nghị giữ nguyên.
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về tố tụng:
- Cấp sơ thẩm tiến hành tố tụng đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Người kháng cáo thực hiện quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.
- Các đương sự không có kháng cáo, được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt, co người đại diện theo ủy quyền của họ tham gia phiên tòa.
[2]. Về nội dung:
2.1. Xét kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyêñ Khắc S. Thấy:
Các đương sự đều thừa nhận việc cấp sơ thẩm tuyên: “Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng và sở hữu đất” lập ngày 11/08/2001 giữa vợ chồng ông Nguyễn Khắc S với bà Hoàng Thị Thanh H liên quan đến thửa đất số 41 là vô hiệu toàn bộ và giải quyết hậu quả của Hợp đồng vô hiệu; mỗi bên có lỗi 50% là đúng và không đương sự nào kháng cáo về nội dung này nên cấp phúc thẩm không xem xét lại. Tuy nhiên cấp sơ thẩm xác định vợ chồng ông S chuyển nhượng toàn bộ thửa đất số 41 diện tích thực tế hiện nay là 866,8m2 giá trị quyền sử dụng đất là 23.170.000.000 đồng. Thiệt hại mỗi bên pH chịu là (23.170.000.000 đồng - 13.000.000 đồng) x 50% lỗi = 11.578.500.000 đồng là chưa chính xác. Bởi lẽ. Tổng giá trị thửa đất số 41 tại thời điểm vợ chồng ông S chuyển nhượng cho bà H là 15.000.000 đồng. Nhưng bà H mới trả 13.000.000 đồng. Tương ứng 86,6666666667%. Do đó bà H chỉ được bồi thường 86,6666666667% của 11.578.500.000 đồng tương ứng 10.034.700.000 đồng. Do đó H đồng xét xử chấp nhận nội dung kháng cáo này của ông S. Sửa án sơ thẩm chỉ buộc vợ chồng ông S pH bồi thường thiệt hại cho bà H là 10.034.700.000 đồng và pH trả lại 13.000.000 đồng đã nhận khi giao dịch chuyển nhượng đất. Tổng ông S pH trả và bồi thường cho bà H là 10.047.700.000 đồng. Do đó chấp nhận nội dung kháng cáo này của ông S. Sửa lại số tiền buộc vợ chồng ông S- bà T pH bồi thường thiệt hại cho bà H như đã nhận định trên.
Tại cấp sơ thẩm và tại cấp phúc thẩm, ông S và người đại diện theo ủy quyền của vợ chồng ông đều thừa nhận: Việc vợ chồng ông S lập “Văn tự chuyển nhượng quyền sơ hưu đất ngày 19/12/2001” với ông H sau khi đã lập “Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng và sở hữu đất” ngày 11/08/2001 với bà H, đã nhận của bà H 13.000.000 đồng. Thừa nhận thửa đất số 41 chuyển nhượng cho ông H theo “Văn tự chuyển nhượng quyền sơ hưu đất ngày 19/12/2001” không pH là của riêng vơ chồng ông S mà là di sản do bố mẹ ông S để lại cho 05 anh chị em và đã phân chia từ năm 1998 nên ông không có quyền bán toàn bộ. Vợ chồng ông S lập “Văn tự chuyển nhượng quyền sơ hưu đất ngày 19/12/2001” là nhằm che giấu việc vay 28.000.000 đồng của ông H; nay chỉ chấp nhận trả ông H 28.000.000 đồng tiền gốc và lãi suất theo ngân hàng nhưng không có căn cứ chứng minh. Ông H xác định không cho vợ chồng ông S vay tiền. Việc ông trả cho vợ chồng ông S ba lần tiền với tổng số 28.000.000 đồng là do ông nhận chuyển nhượng thửa đất số 41 với vợ chồng ông S. Tuy nhiên ông cũng thừa nhận biết thửa đất số 41 là của gia đình ông S chưa được cấp GCNQSDĐ; khi ký “Văn tự chuyển nhượng quyền sơ hưu đất ngày 19/12/2001” không có công chứng, chứng thực của Cơ quan có thẩm quyền; Không có căn cứ chứng minh ông H đã được bàn giao, quản ký sử dụng đất. Do đó: Cấp sơ thẩm tuyên “Văn tự chuyển nhượng quyền sơ hưu đất ngày 19/12/2001” giữa vợ chồng ông S với ông H là vô hiệu do: Không tuân thủ các quy định pháp luật về Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; Vi phạm cả hình thức và nội dung về Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Xác định lỗi mỗi bên 50%, buộc vợ chồng ông S pH trả lại ông H 28.000.000 đồng đã nhận và pH bồi thường thiệt hại cho ông H với mức độ lỗi 50% lỗi tương ứng 11.578.500.00 đồng là đúng quy định tại Điều 146 Bộ luật dân sự năm 1995 và hướng dẫn Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của TAND tối cao. Do đó không chấp nhận nội dung kháng cáo này của ông S.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên cho rằng theo “Văn tự chuyển nhượng quyền sơ hưu đất ngày 19/12/2001” thì ông H chỉ nhận chuyển nhượng thửa đất số 41 với diện tích là 863,2 m2. Cấp sơ thẩm buộc ông S pH bồi thường thiệt hại 50% của 866,8m2 là thiệt thòi cho vợ chồng ông S. Tuy nhiên căn cứ giáp ranh, tứ cận của thửa đất số 41 mô tả tại “Văn tự chuyển nhượng quyền sơ hưu đất ngày 19/12/2001” thì diện tích đo thực tế theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ, xác định thửa đất số 41, đối tượng chuyển nhượng theo “Văn tự chuyển nhượng quyền sơ hưu đất ngày 19/12/2001” là 866,8m2 nên xác định vợ chồng ông S đã chuyển nhượng cho ông H toàn bộ diện tích thửa đất số 41 theo số đo thực tế và pH chịu mức độ lỗi đối với số đo thực tế như cấp sơ thẩm đã xác định.
2.2. Xét kháng cáo của bị đơn ông Hoàng Kim H. H đồng xét xử thấy:
Việc Luật sư B và ông Kim H cho rằng cần pH thu thập các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án dân sự sơ thẩm số 47/SSST ngày 05/8/2003 đã được TAND huyện Đông Anh ban hành Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 17/QĐ – ĐC ngày 26/12/2003 để chuyển hồ sơ đến Cơ quan điều tra xử lý về hình sự vì vợ chồng ông S có hành vi lừa đảo (bán diện tích đất không pH của mình) và việc ông T rút đơn khởi kiện, các bà H X, H thuộc trường hợp cùng đồng ý với việc vợ chồng ông S bán đất cho ông H. Tuy nhiên: Quá trình giải quyết vụ án. Cấp sơ thẩm đã thu thập các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án dân sự sơ thẩm số 47/DSST thụ lý ngày 05/8/2003 gồm:
- Biên bản xác minh lập hồi 10 giờ 45 phút ngày 25/9/2003 (BL số 293-294). Ông Nguyễn Khắc Hoàn (người mà ông H trình bày là đã giới thiệu để ông H giao dịch mua thửa đất số 41 với ông S) đã cung cấp: “Khoảng một năm sau, anh S và anh H cùng đến nhà tôi đề nghị ký làm chứng vào văn bản mua đất ... nội dung giống như tôi đã chứng thực vào giấy mà anh S làm trước, nội dung đó là: Tôi Nguyễn Khắc Hoàn chứng nhận về thửa đất của cụ Lý Biên để lại cho cụ Lĩnh, cụ Lĩnh chết để lại cho gia đình, thửa đất có vị trí....”. Nội dung này phù hợp với Công văn số 57/UBND- ĐC ngày 30/3/2022 của UBND xã Vân Canh (BL 152) xác định: Nguồn gốc thửa đất số 41, tờ bản đồ số 29, diện tích 870m2 tại thôn V, xã X, huyện Đông Anh là đất của ông Nguyễn Khắc Lĩnh (đã chết năm 1967) và bà Nguyễn Thị Đa (đã chết năm 1995).
Ngày 03/3/1998, năm anh chị em thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ Lĩnh, cụ Đa gồm: ông T, ông S, các bà H, X, H đã họp gia đình tự phân chia đều cho 5 anh em cùng quản lý sử dụng. Đến ngày 19/6/2017, ông T, ông S, bà H, bà X, bà H đã được Văn phòng đăng ký đất đai H Nội – Chi nhánh huyện Đông Anh cấp Giấy xác nhận đăng ký đất đai, thể hiện mỗi ông, bà kê khai sử dụng 175 m2. Do đó cấp sơ thẩm xác định: Thửa đất số 41 do gia đình cụ Lĩnh, cụ Đa quản lý sử dụng từ trước để lại. Sau khi cụ Lĩnh, cụ Đa chết thì 05 anh em ông T, ông S, các bà H, X, H tiếp tục quản lý sử dụng đến ngày 19/6/2017, ông T, ông S, bà H, bà X, bà H đã được Văn phòng đăng ký đất đai H Nội – Chi nhánh huyện Đông Anh cấp Giấy xác nhận đang ký đất đai mỗi người kê khai sử dụng 175 m2 là đúng pháp luật.
Biên bản lấy lời khai ngày 27/8/2003 (BL 236-237); Biên bản đối chất ngày 24/9/2003 (BL 285-290); Biên bản hòa giải ngày 22/12/2003. Ông H đều biết việc ông S không có quyền định đoạt toàn bộ thừa đất số 41. Và ông H đã xác định “Việc mua bán của tôi và ông S là đúng thì ông S pH thực hiện việc mua bán. Nếu sai thì ông S pH đền bù cho tôi theo giá thị trường”. Không có ý kiến quan điểm nào đề nghị xử lý hình sự.
Do anh em ông T, ông S, bà H, bà X, bà H đã thỏa thuận và thừa nhận quyền sử dụng của mỗi người tại thửa đất số 41. Nguyên đơn là ông T rút yêu cầu khởi kiện. TAND huyện Đông Anh đã ban hành Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 17/QĐ – ĐC ngày 26/12/2003. Ông H là bị đơn (không có yêu cầu phản tố tại vụ án này) và các đương sự khác không kháng cáo; không bị kháng nghị của người có thẩm quyền. Do vậy Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 17/QĐ– ĐC ngày 26/12/2003 đang có hiệu lực pháp luật.
Các đương sự đều thừa nhận: “Văn tự chuyển nhượng quyền sơ hưu đất ngày 19/12/2001” không có công chứng, chứng thực của cơ quan có thẩm quyền. Tại thời điểm lập Văn tự chuyển nhượng quyền sơ hưu đất thì thửa đất số 41 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; không pH là tài sản riêng của vợ chồng ông S, bà T. Chưa có chứng cứ xác định ông H đã nhận, quản lý sử dụng đất nhận chuyển nhượng và ông H chưa đăng ký kê khai quyền sử dụng đất, đóng thuế đối với diện tích nhận chuyển nhượng tại Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Do đó, Cấp sơ thẩm xác định: “Văn tự chuyển nhượng quyền sơ hưu đất ngày 19/12/2001” vô hiệu toàn bộ là đúng quy định tại các Điều 131,132,705,707 Bộ luật dân sự năm 1995 và Điều 31 Luật đất đai năm 1993 (Bộ luật; Luật đang có hiệu lực tại thời điểm giao dịch) và theo hướng dẫn tại Nghị Quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của H đồng Thẩm phán TAND tối cao về “Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập từ sau ngày 15/10/1993”.
Khi giao dịch chuyển nhượng thửa đất số 41 là đất ao. Vợ chồng ông S, ông H cùng có lỗi chung là đều biết thửa đất số 41 chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng vẫn giao dịch chuyển nhượng và không thực hiện công chứng, chứng thực; không bên nào xuất trình được tài liệu, chứng cứ chứng minh việc giao nhận đất chuyển nhượng. Ngoài lỗi chung; mỗi bên có lỗi riêng như sau:
Mặc dù ông H cho rằng ông đã quản lý đất hoặc đã đóng khoảng 40 cột bê tông, làm hàng rào dây thép gai nay đã bị phá dỡ thông qua các bức ảnh do ông tự chụp nhưng không có căn cứ chứng minh; hơn nữa ông cho rằng đã quản lý, sử dụng đất nhưng không thực hiện nghĩa vụ của người sử dụng đất thông qua đăng ký kê khai quyền sử dụng đất, đóng thuế đối với diện tích nhận chuyển nhượng tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và tại phiên tòa ông H không đề nghị xem xét quyền lợi đối với các cột bê tông, hàng rào dây thép đã xây dựng.
Vợ chồng ông S là người biết rõ họ không có toàn quyền định đoạt thửa đất số 41; trước khi giao dịch với ông H đã ký “Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng và sở hữu đất” ngày 11/08/2001 với bà H. Mặc dù vẫn cùng gia đình quản lý sử dụng đất và đổ đất trên thửa đất số 41 nhưng tại cấp sơ thẩm và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của ông S đều không đều không đề nghị xem xét quyền lợi đối với phần đất đã đổ và xây dựng trên đất.
Dó đó cấp sơ thẩm xác định ông H, vợ chồng ông S mỗi bên có lỗi 50% là có căn cứ. Như nhận định phân tích đối với kháng cáo của ông S. H đồng xét xử giữ nguyên quyết định của cấp sơ thẩm. Buộc vợ chồng ông S pH trả lại ông H 11.599.000.000 đồng, gồm: Tiền đã nhận 28.000.000 đồng và 11.571.000.00 đồng tiền bồi thường thiệt hại hợp đồng là đúng quy định tại Điều 146 Bộ luật dân sự năm 1995 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Tòa án nhân dân tối cao. Việc ông H kháng cáo cho rằng vợ chồng ông S pH chịu và bồi thường toàn bộ 100% thiệt hại là không có căn cứ chấp nhận.
Đối với kháng cáo xem xét lại Vi bằng số 610/2019/VB-TPLQLTL để xác định hơp đồng chuyên nhương đất thât hay gia cach và đề nghị hủy Vi bằng số 610/2019/VB-TPLQLTL ngày 09/05/2019. Thấy:
Như các nhận định trên. Nguồn gốc thửa đất số 41 là di sản thừa kế của cụ Lĩnh, cụ Đa để lại cho ông T, ông S, bà H, bà X, bà H được hưởng thừa kế chung. Năm người này đã tự thỏa thuận phân chia theo Biên bản họp gia đình ngày 03/3/1998. Ngày 19/6/2017, ông T, ông S, bà H, bà X, bà H đã được Văn phòng đăng ký đất đai H Nội – Chi nhánh huyện Đông Anh cấp Giấy xác nhận đăng ký đất đai, thể hiện mỗi ông, bà kê khai sử dụng 175 m2.
Ngày 09/05/2019, ông T, ông S, bà H, bà X, bà H chuyển nhượng cho ông P, bà Q, bà H 608 m2 đất và 85 m2 làm lối đi chung tại thửa đất số 41(2) với giá 6.505.600.000 đồng theo Vi bằng số: 610/2019/VB-TPLQLTL. Bên nhận chuyển nhượng là ông P, bà Q, bà H đã thanh toán cho ông T, các bà H, X, H tổng số tiền 6.000.000.000 đồng, còn thiếu 505.600.000 đồng. Các bên thỏa thuận số tiền còn thiếu này đến khi nào có giấy chứng nhận quyền sử dụng thì bên nhận chuyển nhượng trả nốt cho bên chuyển nhượng. Như vậy bên nhận chuyển nhượng đã thực hiện việc thanh toán được hơn 2/3 nghĩa vụ đối với bên chuyển nhượng. Bên chuyển nhượng là ông T, bà H, bà X, bà H đã bàn giao cho ông P, bà Q, bà H quản lý, sử dụng là 674,9 m2 đất, đủ điều kiện mở lối đi ra phía Nam và phía Đông thửa đất. Phần còn lại ông S quản lý 191,9 m2, đủ điều kiện mở lối đi ra phía Đông và một phần phía Tây liền kề phía Đông thửa đất và do các bên tự tách thửa số 41 thành 02 thửa, phần của ông S là thửa 41(1), phần của ông P, bà Q, bà H nhận chuyển nhượng là 41(2). Tại phần đất ông P, bà Q, bà H được bàn giao quản lý, sử dụng các ông bà đã xây dựng 02 ngôi nhà cấp 4, công trình phụ và sân gạch, tường bao quanh đất và trực tiếp sinh sống trên nhà đất này, có ranh giới riêng biệt với phần đất tách trả ông S, phù hợp với nội dung thỏa thuận tại Biên bản họp gia đình ngày 03/03/1998 của 05 anh chị em ông S. Giữa ông S và ông P, bà Q, bà H không có tranh chấp đối với phần diện tích đã phân chia.
Cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của: Ông T, bà H, bà X, bà H, ông P, bà Q, bà H. Công nhận Vi bằng số 610/2019/VB-TPLQLTL ngày 09/5/2019 có hiệu lực pháp luật; tuyên các bên có trách nhiệm thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình theo thỏa thuận tại Vi bằng số 610/2019/VB-TPLQLTLvà theo quy định pháp luật là đúng quy định tại Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015 và hướng dẫn tạiNghi ̣ quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của H đồng Thẩm phán TAND tối cao. Ông T, ông S, bà H, bà X, bà H, ông P, bà Q, bà H không kháng cáo về nội dung này.
Ông H tham gia giao dịch với vợ chồng ông S theo “Văn tự chuyển nhượng quyền sơ hưu đất ngày 19/12/2001” đã bị tuyên vô hiệu toàn bộ. Dó đó nội dung kháng cáo này không có căn cứ chấp nhận.
2.3. Các nội dung khác:
Cấp sơ thẩm xác định:
- Ghi nhận sự tự nguyện của vợ chồng ông H và bà Y không yêu cầu Tòa án giải quyết “Giấy biên nhận nhượng quyền sở hữu đất” ngày 25/5/2002.
- Ghi nhận sự tự nguyện của vợ chồng ông H và vợ chồng ông C không yêu cầu Tòa án giải quyết “Bản cam kết nhượng quyền sở hữu đất” ngày 15/2/2002.
Ông H đại diện theo ủy quyền của ông Đinh Phú C và các bà L, T, Y xác định: Họ không kháng cáo và người ủy quyền cho họ không kháng cáo về nội dung này. Nên cấp phúc thẩm giữ nguyên các nội dung này.
2.4. Quan điểm của H đồng xét xử phúc thẩm:
- Chấp nhận một phần kháng cáo của ông S. Sửa lại nghĩa vụ thanh toán của vợ chồng ông S đối với bà H;
- Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Hoàng Kim H;
Quan điểm của Kiểm sát viên đề nghị: Chấp nhận một phần kháng cáo của ông S, sửa bản án sơ thẩm về nghĩa vụ thanh toán của vợ chồng ông S; không chấp nhận kháng cáo của ông H là đúng pháp luật và phù hợp với nhận định của H đồng xét xử.
[3] Về án phí:
Giữ nguyên quyết định của cấp sơ thẩm về án phí dân sự sơ thẩm.
Do sửa án sơ thẩm, người kháng cáo không pH chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên! Căn cứ vào:
QUYẾT ĐỊNH
- Điều 147, Điều 148; khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Các Điều 146,705,707 Bộ luật dân sự năm 1995 và Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015;
- Nghi ̣ quyết 02/2004NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của H đồng Thẩm phán TAND tối cao;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc H; Điều 2 Luật Người cao tuổi.
Xử:
Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Nguyễn Khắc S. Không chấp nhận kháng cáo của ông Hoàng Kim H. Sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số 31/2023/DSST ngày 24/2/2023 của TAND huyện Đông Anh, H Nội. Cụ thể như sau:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Khắc S về việc đề nghị hủy giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất số 41, tờ bản đồ số 29 tại: Thôn V, xã X, huyện Đông Anh, H Nội giữa vợ chồng ông Nguyễn Khắc S - bà Nguyễn Thị T với bà Hoàng Thị Thanh H.
1.1. Tuyên “Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng và sở hữu đất” lập ngày 11/08/2001 giữa vợ chồng ông Nguyễn Khắc S – bà Nguyễn Thị T với bà Hoàng Thị Thanh H liên quan đến thửa đất số 41, tờ bản đồ số 29 tại thôn V, xã X, huyện Đông Anh, Thành phố H Nội là vô hiệu toàn bộ.
1.2. Buộc vợ chồng ông Nguyễn Khắc S – bà Nguyễn Thị T pH có nghĩa vụ trả bà Hoàng Thị Thanh H số tiền là 10.047.700.000 (Mười tỷ, không trăm bốn mươi bảy triệu, bảy trăm nghìn) đồng; gồm: 13.000.000 đồng pH trả lại do đã nhận khi giao dịch chuyển nhượng đất và 10.034.700.000 đồng pH bồi thường thiệt hại do hợp đồng vô hiệu.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Khắc S về việc đề nghị hủy giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất số 41, tờ bản đồ số 29 tại: Thôn V, xã X, huyện Đông Anh, H Nội giữa vợ chồng ông Nguyễn Khắc S- bà Nguyễn Thị T với ông Hoàng Kim H. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Hoàng Kim H đề nghị: Buộc vợ chồng ông Nguyễn Khắc S- bà Nguyễn Thị T pH tiếp tục thực hiện Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa đất số 41, tờ bản đồ số 29 tại thôn V, xã X, huyện Đông Anh, H Nộ theo “Văn tự chuyển nhượng sở hữu đất” lập ngày 19/12/2001.
2.1. Tuyên “Văn tự chuyển nhượng sở hữu đất” lập ngày 19/12/2001 giữa vợ chồng ông Nguyễn Khắc S – bà Nguyễn Thị T với vợ chồng ông Hoàng Kim H liên quan đến thửa đất số 41, tờ bản đồ số 29 tại: Thôn V, xã X, huyện Đông Anh, Thành phố H Nội là vô hiệu toàn bộ.
2.2. Buộc vợ chồng ông Nguyễn Khắc S – bà Nguyễn Thị T pH trả vợ chồng ông Hoàng Kim H - bà Ngô Thị L số tiền là 11.599.000.000 (Mười một tỷ, năm trăm chín mươi chín triệu), gồm: 28.000.000 đồng pH trả lại do đã nhận khi giao dịch chuyển nhượng đất và 11.571.000.00 đồng pH bồi thường thiệt hại do hợp đồng vô hiệu.
2.3. Ghi nhận sự tự nguyện của vợ chồng ông Hoàng Kim H và vợ chồng ông Đinh Phú C không yêu cầu Tòa án giải quyết “Bản cam kết nhượng quyền sở hữu đất” ngày 15/02/2002 giữa vợ chồng ông Hoàng Kim H với vợ chồng ông Đinh Phú C liên quan đến thửa đất số 41, tờ bản đồ số 29 tại thôn V, xã X, huyện Đông Anh, Thành phố H Nội.
2.4. Ghi nhận sự tự nguyện của vợ chồng ông Hoàng Kim H và bà Hoàng Thị Y không yêu cầu Tòa án giải quyết “Giấy biên nhận nhượng quyền sở hữu đất” ngày 25/05/2002 giữa vợ chồng ông Hoàng Kim H với bà Hoàng Thị Y liên quan đến thửa đất số 41, tờ bản đồ số 29 tại thôn V, xã X, huyện Đông Anh, Thành phố H Nội.
3. Kể từ khi người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án. Nếu người pH thực hiện nghĩa vụ trả tiền chưa thi hành xong khoản tiền pH trả thì người pH thi hành án còn pH chịu lãi đối với số tiền chưa thanh toán xong theo mức lãi suất 10%/năm (Quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015).
4. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Hoàng Kim H đề nghị hủy giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Vi bằng số 610/2019/VB-TPLQLTL ngày 09/05/2019 giữa ông Nguyễn Khắc T, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị X, bà Nguyễn Thị H với bà Thịnh Thị Q, ông Nguyễn Văn P, bà Đỗ Thị H liên quan đến thửa đất số 41, tờ bản đồ số 29 tại: Thôn V, xã X, huyện Đông Anh, H Nội.
5. Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Khắc T, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị X, bà Nguyễn Thị H. Công nhận: Giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng 674,9 m2 đất và tài sản gắn liền trên diện tích 674,9 m2 đất thuộc thửa đất số 41, tờ bản đồ số 29 tại: Thôn V, xã X, huyện Đông Anh, Thành phố H Nội giữa ông Nguyễn Khắc T, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị X, bà Nguyễn Thị H với bà Thịnh Thị Q, ông Nguyễn Văn P, bà Đỗ Thị H theo “Văn bản thỏa thuận về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 09/5/2019” được Văn phòng thừa phát lại quận Nam Từ Liêm chứng thực tại Vi bằng số 610/2019/VB-TTPLQLTL ngày 09/05/2019 có hiệu lực pháp luật.
5.1. Ông Nguyễn Khắc T, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị X, bà Nguyễn Thị H, bà Thịnh Thị Q, ông Nguyễn Văn P, bà Đỗ Thị H có quyền, nghĩa thực hiện theo các thỏa thuận tại “Văn bản thỏa thuận về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 09/5/2019” và Vi bằng số 610/2019/VB- TTPLQLTL ngày 09/05/2019.
Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Khắc T, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị X, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Văn P, bà Thịnh Thị Q, bà Đỗ Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết số tiền 505.600.000 đồng còn thiếu theo “Văn bản thỏa thuận về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 09/5/2019” và Vi bằng số 610/2019/VB-TTPLQLTL ngày 09/05/2012.
5.2. Ông Nguyễn Văn P, vợ chồng bà Thịnh Thị Q - ông Hoàng N Khoát và vợ chồng bà Đỗ Thị H - ông Nguyễn Văn Q có quyền sử dụng chung 674,9 m2 đất và sở hữu chung toàn bộ tài sản gắn liền trên diện tích 674,9 m2 đất tại thửa đất số 41, tờ bản đồ số 29 tại: Thôn V, xã X; huyện Đông Anh, Thành phố H Nội. Giới hạn bởi các điểm 5,6,7,8,9,10,11,12, 13,14,15,17,5 trong sơ đồ kèm theo bản án.
5.3. Ông Nguyễn Văn P; vợ chồng bà Thịnh Thị Q- ông Hoàng N Khoát và vợ chồng bà Đỗ Thị H - ông Nguyễn Văn Q có quyền, nghĩa vụ chủ động liên hệ với Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để đăng ký kê khai quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất; Đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đã được công nhận quyền sử dụng chung, quyền sở hữu chung tại điểm 5.2 khoản 5 Quyết định của bản án và theo quy định của pháp luật về đất đai.
6. Ghi nhận sự thỏa thuận của ông Nguyễn Khắc T, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị X, bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Khắc S về việc ông Nguyễn Khắc S được quyền sử dụng 191,9 m2 đất ở và sở hữu các tài sản gắn liền với diện tích 191,9 m2 đất thuộc thửa đất số 41, tờ bản đồ số 29 tại: Thôn V, xã X, huyện Đông Anh, Thành phố H Nội. Giới hạn bởi các điểm 1,2,3,4,5,17,15,16,1 trong sơ đồ kèm theo bản án. Ông Nguyễn Khắc S có quyền, nghĩa vụ chủ động liên hệ với Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đăng ký kê khai quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất; Đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đã được ghi nhận quyền sử dụng, quyền sở hữu theo quyết định của bản án và theo quy định của pháp luật về đất đai.
7. Về án phí dân sự:
Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm cho các đương sự.
T hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người pH thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a.7bvà 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Án xử công khai phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tòa tuyên án./.
Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 489/2023/DS-PT
Số hiệu: | 489/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 27/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về