Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 37/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 37/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/11/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 30 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 190/2021/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 5 năm 2021 về việc “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 11 tháng 11 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Tạ Thị V - sinh năm 1985 Địa chỉ: Tổ 18, khu M, phường B, thành phố V, tỉnh Phú Thọ.

(Chỗ ở: Số nhà XX, tổ a, GQ, Thượng Thanh, quận L, thành phố Hà Nội). (Có mặt)

Bị đơn: Anh Nguyễn Bá B - sinh năm 1986 Địa chỉ: Tổ 18, khu M, phường B, thành phố V, tỉnh Phú Thọ.

(Hiện anh B đang cai nghiện tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Phú Thọ - Cơ sở 2).

(Anh B có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện và lời khai tại Toà án, nguyên đơn chị Tạ Thị V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Bá B đăng ký kết hôn ngày 25/8/2015 tại UBND phường B, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Khi kết hôn hai bên tự nguyện, không bị ép buộc. Vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 10 năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh B hay chơi bời, sử dụng ma túy, không chăm lo cuộc sống hạnh phúc gia đình và nuôi dạy con dẫn đến hai vợ chồng thường xuyên xẩy ra mâu thuẫn, chị và gia đình khuyên giải anh B nhiều lần về việc không sử dụng ma túy nhưng anh B vẫn sử dụng ma túy dẫn đến nghiện ma túy. Năm 2020 anh B nghiệm ma túy nên phải đi cai nghiện tập trung theo quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, hiện nay anh B đang cai nghiện tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Phú Thọ - Cơ sở 2. Từ ngày anh B đi cai nghiện đến nay chị không đến thăm hỏi. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng thực sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị xin ly hôn anh Nguyễn Bá B.

Về con chung: Chị và anh B có một con chung là Nguyễn Thảo M - sinh ngày 29/6/2016. Khi ly hôn chị nhận con chung, không đề nghị anh B cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung và công sức đóng góp gia đình: Chị và anh B không có nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Nguyễn Bá B trình bày như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Tạ Thị V đăng ký kết hôn ngày 25/8/2015 tại UBND phường B, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Khi kết hôn hai bên tự nguyện, không bị ép buộc. Vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 3/2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh sử dụng ma túy dẫn đến vợ chồng bất đồng quan điểm sống, chị V và gia đình khuyên giải anh nhiều lần là không sử dụng ma túy nhưng anh vẫn sử dụng dẫn đến nghiện ma túy, khoảng tháng 10/2020 anh bị Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 18 tháng. Từ ngày anh đi cai nghiện tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Phú Thọ đến nay, chị V không đến thăm hỏi anh. Nay chị V xin ly hôn nhưng anh xin đoàn tụ vì anh vẫn còn yêu thương chị V, nếu chị V cương quyết xin ly hôn thì anh nhất trí.

Về con chung: Anh và chị V có một con chung là Nguyễn Thảo M - sinh ngày 29/6/2016. Nếu vợ chồng ly hôn, chị V nhận con chung thì anh nhất trí.

Về tài sản chung, nợ chung và công sức đóng góp gia đình: Anh và chị V không có nên không đề nghị Toà án giải quyết.

Hiện nay anh đang cai nghiện tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Phú Thọ nên không thể đến Tòa án tham gia tố tụng được. Anh đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, quan điểm của anh là vẫn giữ nguyên bản tự khai, không bổ sung gì.

- Tòa án tiến hành hành xác minh tại gia đình anh B và khu dân cư nơi anh B cư trú. Nội dung xác minh như sau: Anh Nguyễn Bá B và chị Tạ Thị V đăng ký kết hôn năm 2015 tại UBND phường Bạch Hạc, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Khi kết hôn hai bên tự nguyện, không bị ép buộc, được gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán địa phương. Vợ chồng chị V anh B sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh B nghiện ma túy nên hiện nay đang cai nghiện tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Phú Thọ. Hiện nay chị V và con đang ở Hà Nội, không ở cùng với gia đình nhà anh B tại phường Bạch Hạc, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.

Vợ chồng anh B chị V có một con chung là Nguyễn Thảo M - sinh ngày 29/6/2016.

Vợ chồng anh B chị V không có tài sản chung, không nợ ai và không có công sức đóng góp gia đình.

Nay chị V xin ly hôn anh B, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

- Phát biểu của Kiểm sát viên.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký ghi biên bản phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký ghi biên bản phiên tòa, các bên đương sự đã chấp hành đúng quy định của pháp luật.

Căn cứ các Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

Xử cho chị Tạ Thị V được ly hôn anh Nguyễn Bá B.

Về con chung. Giao con chung là Nguyễn Thảo M - sinh ngày 29/6/2016 cho chị Tạ Thị V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh B không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị V không yêu cầu.

Về tài sản chung, nợ chung và công sức đóng góp: Không giải quyết vì không có.

Về án phí ly hôn: Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Điểm a khoản 5 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc chị Tạ Thị V phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng. Xét thấy anh Nguyễn Bá B cư trú tại phường B, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Chị Tạ Thị V xin ly hôn anh Nguyễn Bá B nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì.

Anh Nguyễn Bá B hiện đang cai nghiện tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Phú Thọ nên không đến Tòa án để giải quyết việc chị V xin ly hôn, anh B có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn Bá B là phù hợp.

[2] Về quan hệ hôn nhân. Chị Tạ Thị V và anh Nguyễn Bá B đăng ký kết hôn ngày 25/8/2015 tại UBND phường B, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Khi kết hôn hai bên tự nguyện, không bị ép buộc. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị V và anh B là hợp pháp. Xét thấy chị V và anh B sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh B hay chơi bời và nghiện ma túy nên hiện nay anh B đang cai nghiện tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Phú Thọ, thời gian anh B điều trị nghiện ma túy thì chị V không đến thăm hỏi anh B. Nay chị V xin ly hôn thì anh B xin đoàn tụ, nếu chị V cương quyết xin ly hôn thì anh B nhất trí. Căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa chị V và anh B là mâu thuẫn rất trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử cho chị V được ly hôn anh B là phù hợp. Vì vậy, xử cho V được ly hôn anh B.

[3] Về con chung. Chị V và anh B có một con chung là Nguyễn Thảo M - sinh ngày 29/6/2016. Khi ly hôn chị V nhận nuôi con thì anh B nhất trí. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị giao con chung cho chị V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp. Vì vậy, giao con chung cho chị V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Đối với cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy chị V không đề nghị anh B cấp dưỡng nuôi con nên anh B không phải cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung, nợ chung và công sức đóng góp gia đình. Xét thấy chị V và anh B không có nên không giải quyết.

[5] Về án phí ly hôn. Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị Tạ Thị V phải chịu 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 51; Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình. Khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Tạ Thị V về việc xin ly hôn anh Nguyễn Bá B. Xử cho chị Tạ Thị V được ly hôn anh Nguyễn Bá B.

3. Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Thảo M - sinh ngày 29/6/2016 cho chị Tạ Thị V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Anh Nguyễn Bá B không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, anh Nguyễn Bá B có quyền và ngh a vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

4. Về tài sản chung, nợ chung và công sức đóng góp gia đình: Không giải quyết vì không có.

5. Về án phí: Chị Tạ Thị V phải chịu án phí ly hôn là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2020/0000238 ngày 11/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Xác nhận chị Tạ Thị V đã nộp xong án phí.

6. Về quyền kháng cáo. Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết bản án.

Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 37/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:37/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về