Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 15/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 15/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/03/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 28 tháng 3 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Việt Yên, tỉnh Bắc giang tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 03/2022/TLST- HNGĐ ngày 05/01/2022 về “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 10/3/2022 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1974 (có mặt)

* Bị đơn: Anh Vũ Phương Q, sinh năm 1961 (có mặt) Đều cư trú: Tổ dân phố Hoàng Mai 1, thị trấn Nếnh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn xin ly hôn đề ngày 15/12/2021, bản tự khai và biên bản lấy lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày:

Chị và anh Vũ Phương Q kết hôn ngày 07/3/1998 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Tân Thanh, huyện Lạng Giang. Sau khi kết hôn chị và anh Q về chung sống với nhau tại Trung tâm vật tư nông nghiệp huyện Việt Yên.

Ban đầu vợ chồng chung sống bình thường được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có tiếng nói chung, không hợp nhau, anh Q không bảo vệ được vợ con, chị và anh Q đã nói chuyện với nhau, chị đã bỏ qua cho anh Q rất nhiều lần nhưng anh Q vẫn không thay đổi, không quan tâm gì đến vợ con. Hai vợ chồng chị ly thân nhau từ năm 2018 cho đến nay không còn quan tâm chăm sóc gì cho nhau, tuy vẫn sống cùng nhà nhưng chị và anh Q không sinh hoạt chung ăn riêng, ở riêng, không quan tâm gì đến nhau. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị giải quyết ly hôn với anh Q.

Về con chung: Vợ chồng chị có hai con chung là Vũ Phương Anh, sinh ngày 14/4/2000 và Vũ Phương Dũng, sinh ngày 12/3/2004. Hiện hai con chung do chị nuôi dưỡng. Ly hôn các con chung hiện tại đều đã trưởng thành chị không yêu cầu giải quyết.

Tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản, ruộng canh tác, công sưc đong gop trong thơi gian ơ chung: Vợ chồng chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà hôm nay chị Nguyễn Thị T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của mình về việc xin ly hôn với anh Q, về con chung, tài sản chung chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai bị đơn anh Vũ Phương Q có trình bày:

Anh và chị Nguyễn Thị T kết hôn ngày 07/3/1998 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Tân Thanh, huyện Lạng Giang. Sau khi kết hôn anh và chị T về chung sống với nhau tại Trung tâm vật tư nông nghiệp huyện Việt Yên. Ban đầu vợ chồng chung sống bình thường, hạnh phúc. Năm 2020 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, chỉ là những mâu thuẫn nhỏ, gia đình có tiến hành khuyên giải nhưng vợ chồng chưa cải thiện được. Nay chị T có đơn xin ly hôn thì anh xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn, anh mong muốn chị T quay về nuôi con cái nếu chị T kiên quyết ly hôn thì anh không đồng ý.

Về con chung: Vợ chồng anh có hai con chung là Vũ Phương Anh, sinh ngày 14/4/2000 và Vũ Phương Dũng, sinh ngày 12/3/2004. Hiện hai con chung do cả hai vợ chồng nuôi dưỡng. Ly hôn các con chung hiện tại đều đã trưởng thành anh không yêu cầu giải quyết.

Tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản, ruộng canh tác, công sưc đong gop trong thơi gian ơ chung: Vợ chồng anh tự thỏa thuận, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay anh Vũ Phương Q có mặt trình bày: Anh không đồng ý ly hôn với chị T, về con chung hiện tại hai con chung đã trưởng thành anh không yêu cầu giải quyết, về tài sản chung anh cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, của Hội đồng xét xử là đảm bảo theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa nguyên đơn chị T, bị đơn anh Q chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.

Về nội dung vụ án: Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 28; Điều 35; khoản 3 Điều 144, khoản 4 Điều 147, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội xử:

Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Vũ Phương Q.

Về con chung; Về tài sản chung, tài sản riêng, nghĩa vụ chung về tài sản, ruộng canh tác và công sức đóng góp trong thời gian ở chung: Chị T, anh Q không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.

Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình giữa chị T và anh Q thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân theo Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân huyện Tân Yên thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Đối với yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn chị Nguyễn Thị T, Hội đồng xét xử thấy:

* Về quan hệ hôn nhân: Giữa Chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Phương Q xác lập quan hệ hôn nhân là tự nguyện, hai bên đủ điều kiện kết hôn theo quy định của luật hôn nhân và gia đình, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Tân Thanh, huyện Lạng Giang làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng và được coi là hôn nhân hợp pháp. Hội đồng xét xử xét thấy chị T và anh Q sau khi về chung sống với nhau ban đầu bình thường, hạnh phúc được thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Theo lời khai của chị T thì nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, không hợp nhau, hai cãi vã nhau, vợ chồng chị đã ly thân nhau từ năm 2018 đến nay không còn quan tâm chăm sóc gì đến nhau, nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị được ly hôn với anh Q. Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa anh Q xác định năm 2020 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn chỉ là những mâu thuẫn nhỏ, gia đình có tiến hành khuyên giải nhưng vợ chồng chưa cải thiện được, anh xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn nên chị T có đơn xin ly hôn thì anh không đồng ý.

Qua xác minh ở địa phương cũng thể hiện năm 2020 thì vợ chồng chị T, anh Q phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do chị T và anh Q có nghi ngờ nhau về việc quan hệ với người khác dẫn đến vợ chồng anh chị có mâu thuẫn, không có tiếng nói chung. Tại lời khai của các con chị T, anh Q là cháu Vũ Phương Anh, Vũ Phương Dũng có trình bày xác định chị T, anh Q ly thân nhau từ vài năm trước vì mâu thuẫn trong chuyện tình cảm, chị T, anh Q xảy ra mâu thuẫn cãi nhau, chị T đã rất nhiều lần tha thứ nhưng anh Q vẫn không khắc phục, chị T, anh Q sống cùng nhà nhưng không ai quan tâm đến ai và thỉnh thoảng lại cãi vã nhau. Anh Q trình bày tại phiên tòa xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn, không đồng ý ly hôn nhưng anh cũng không có biện pháp gì để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Vì vậy, xét mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T và anh Q đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận đơn ly hôn của chị T là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

* Về con chung: Tại phiên tòa hôm nay chị T, anh Q xác định 02 con chung là cháu Vũ Phương Anh và Vũ Phương Dũng hiện đã trưởng thành, không yêu cầu xem xét, giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

* Về tài sản chung, tài sản riêng, nghĩa vụ chung của vợ chồng về tài sản, ruộng canh tác, công sức đóng góp trong thời gian ở chung: Chị T, anh Q không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[3] Về án phí: Chị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân gia đình;

Điều 28; Điều 35; khoản 3 Điều 144; khoản 4 Điều 147; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Xử:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Vũ Phương Q.

[2] Về con chung: Chị T, anh Q xác định 02 con chung hiện đã trưởng thành, không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[3] Về tài sản chung, tài sản riêng, nghĩa vụ chung của vợ chồng về tài sản, ruộng canh tác, công sức đóng góp trong thời gian ở chung: Chị T, anh Q không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[4] Án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0006172 ngày 05/01/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Việt Yên. Xác nhận chị Nguyễn Thị T đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

[5] Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 15/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:15/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Việt Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về