Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 143/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM YÊN, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 143/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/08/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 

Ngày 09/8/2021 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 85/2021/TLST-HNGĐ, ngày 23 tháng 4 năm 2021 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 22 tháng 7 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vi Thị X (Vi Thị S), sinh năm 1996;

Nơi ĐKNKTT: Thôn M, xã Ph, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang. Hiện trú tại: Thôn Ng, xã Th, huyện H Y, tỉnh Tuyên Quang.

- Bị đơn: Anh Hoàng Văn E, sinh năm 1991;

Địa chỉ: Thôn M, xã Ph, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang. (Chị X và anh E đều có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Vi Thị X trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Hoàng Văn E chung sống với nhau từ năm 2012 và có đăng ký kết hôn vào ngày 24/6/2015 tại UBND xã Ph, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục, tập quán của địa phương. Cuộc sống chung vợ chồng ban đầu hạnh phúc, đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn vợ chồng, nguyên nhân tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và vợ chồng đã sống ly thân nhau được hơn một năm. Nay chị xác định mâu thuẫn vợ chồng đã căng thẳng, trầm trọng đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Hoàng Văn E.

- Về con chung: Chị và anh Hoàng Văn E có 03 con chung là cháu Hoàng Minh H, sinh ngày 26/12/2012; Hoàng Thị Ng, sinh ngày 29/8/2015 và Hoàng Nhật N, sinh ngày 06/7/2018 sau khi ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cháu Hoàng Minh H, cháu Hoàng Thị Ng đến khi trưởng thành và không yêu cầu anh Hoàng Văn E phải cấp dưỡng nuôi con chung. Chị nhất trí để anh E nuôi dưỡng cháu Hoàng Nhật N.

- Về tài sản chung: Chị X xác định không có, không yêu cầu giải quyết.

- Về vay nợ chung: Chị X xác định không có, không yêu cầu giải quyết.

* Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, nhưng tại biên bản lấy lời khai anh Hoàng Văn E trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Vi Thị X chung sống với nhau từ năm 2012, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Ph, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang vào ngày 24/6/2015 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, khi mâu thuẫn xảy ra vợ chồng đã sống ly thân nhau được hơn một năm . Nay chị Xxin ly hôn với anh, anh nhất trí với yêu cầu xin ly hôn c ủa chị X.

- Về con chung: Anh và chị X có 03 con chung là cháu Hoàng Minh H, sinh ngày 26/12/2012 Hoàng Thị Ng, sinh ngày 29/8/2015 và Hoàng Nhật N, sinh ngày 06/7/2018, sau khi ly hôn anh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hoàng Nhật N và không yêu cầu chị X phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, anh nhất trí để chị Xnuôi dưỡng cháu Hoàng Minh H và Hoàng Thị Ng.

- Về tài sản chung: Anh E không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: Anh E xác định không có, không yêu cầu giải quyết.

* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án đều đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Chị Vi Thị X và anh Hoàng Văn E chung sống với nhau từ năm 2012 có đăng ký kết hôn vào ngày 24/6/2015 tại UBND xã Ph, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc sau đó phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Hiện chị Xvà anh Eđã sống ly thân, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị X và anh E đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào các quy định của Luật hôn nhân và gia đình đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Xvà xử cho chị Vi Thị X được ly hôn với anh Hoàng Văn E. Về con chung đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Hoàng Minh H, sinh ngày 26/12/2012 Hoàng Thị Ng, sinh ngày 29/8/2015 cho chị Vi Thị X được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục; giao cháu Hoàng Nhật N, sinh ngày 06/7/2018 cho anh Hoàng Văn E được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử buộc chị Vi Thị X phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Vi Thị Xvà anh Hoàng Văn E đều có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Vi Thị X và anh Hoàng Văn E chung sống với nhau từ năm 2012 có đăng ký kết hôn vào ngày 24/6/2015 tại UBND xã Ph, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục, tập quán của địa phương. Như vậy hôn nhân giữa chị Vi Thị X và anh Hoàng Văn E là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình giải quyết vụ án chị Xxác định cuộc sống chung vợ chồng ban đầu hạnh phúc, nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Khi mâu thuẫn xảy ra vợ chồng không thể hòa hợp được, nên vợ chồng đã sống ly thân nhau.

Hội đồng xét xử thấy rằng do bất đồng quan điểm trong cuộc sống dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng giữa chị X và anh E. Khi mâu thuẫn xảy ra vợ chồng đã sống ly thân nhau từ đó đến nay, trong thời gian sống ly thân vợ chồng không quan tâm gì đến nhau. Vì vậy có căn cứ xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa chị X và anh E đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và không thể tồn tại được một gia đình ấm no, bình đẳng, hạnh phúc và tiến bộ. Ngoài ra quá trình giải quyết vụ án anh E cũng nhất trí với yêu cầu xin ly hôn của chị X. Do đó cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị X với anh E là phù hợp với quy định tại Điều 56 - Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị Vi Thị X và anh Hoàng Văn E có 03 con chung là cháu Hoàng Minh H, sinh ngày 26/12/2012; Hoàng Thị Ng, sinh ngày 29/8/2015 và Hoàng Nhật N, sinh ngày 06/7/2018. Quá trình giải quyết vụ án chị Xcó nguyện vọng được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cháu Hoàng Minh H, cháu Hoàng Thị Ng đến khi trưởng thành và không yêu cầu anh E cấp dưỡng nuôi con chung. Anh E có nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu Hoàng Nhật N và không yêu cầu chị X phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung. Hội đồng xét xử thấy rằng khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Quá trình giải quyết vụ án qua hỏi ý kiến của cháu Hoàng Minh H thì cháu H có nguyện vọng được ở với chị X. Do vậy để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển về mọi mặt của các cháu cần giao cháu Hoàng Minh H và cháu Hoàng Thị Ng cho chị X trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục; giao cháu Hoàng Nhật N cho anh E được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục là phù hợp với quy định của pháp luật. Do các bên đương sự không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung: Chị X và anh E cùng xác định không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về vay nợ chung: Chị X và anh E cùng xác định không có không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Vi Thị X phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng các Điều 28; 147; 207; 227; 228; 235; 238; 266; 267; 271; 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 56; 81; 82; 83; 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

* Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Vi Thị X được ly hôn với anh Hoàng Văn E.

- Về con chung: Giao cháu Hoàng Minh H, sinh ngày 26/12/2012 và cháu Hoàng Thị Ng, sinh ngày 29/8/2015 cho chị Vi Thị X được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục; giao cháu Hoàng Nhật N, sinh ngày 06/7/2018 cho anh Hoàng Văn E được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục. Chị Vi Thị X và anh Hoàng Văn E không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng nhau và có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở. Các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.

- Về án phí: Chị Vi Thị X phải nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0004500, ngày 17/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Yên, chị X đã nộp đủ án phí.

Anh Hoàng Văn E không phải chịu án phí.

Chị X và anh E được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được hay niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 143/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:143/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Yên - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về