Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 14/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 14/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/02/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 15 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 245/2021/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2022/QĐXX-ST ngày 12/01/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2022/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Ma Thị Đ, sinh năm 1990 Đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn N, xã Y, huyện C, tỉnh Tuyên Quang Nơi cư trú: Ký túc xá C, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh

- Bị đơn: Anh Nguyễn Hữu V, sinh năm 1987 Nơi cư trú: thôn X, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình.

(Chị Đ có mặt, anh V vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, các tài liệu chứng cứ đã xuất trình thì nguyên đơn Chị Ma Thị Đ có yêu cầu khởi kiện và trình bày tại phiên tòa như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Ma Thị Đ kết hôn với anh Nguyễn Hữu V trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình vào ngày 16/9/2015. Sau khi kết hôn, vợ chồng sinh sống tại xã A một thời gian thì chuyển lên Bắc Ninh sinh sống và lao động tự do. Quá trình chung sống đến tháng 9/2019 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp bất đồng quan điểm sống, vợ chồng ly thân từ tháng 9/2019 đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, Chị Đ đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh V.

Về con chung: Chị Đ trình bày vợ chồng không có con chung, hiện tại chị cũng không có thai nghén gì.

Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung, không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Bị đơn anh Nguyễn Hữu V vắng mặt nên không có ý kiến trình bày.

- Tại biên bản xác minh với bà Nguyễn Thị L và ông Nguyễn Hữu S(là bố mẹ đẻ anh V), địa chỉ: thôn X, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình thể hiện:

Chị Ma Thị Đ và anh Nguyễn Hữu V là vợ chồng, có đăng ký kết hôn vào ngày 16/9/2015. Sau khi kết hôn, vợ chồng Chị Đ, anh V sống cùng gia đình ông, bà một thời gian sau đó chuyển lên Bắc Ninh làm ăn sinh sống. Quá trình chung sống vợ chồng Chị Đ, anh V có vướng mắc về vấn đề con cái. Chị Đ và anh V đã ly thân từ tháng 9/2019 cho đến nay. Về con chung: Chị Đ và anh V không có con chung. Về tài sản chung: Vợ chồng Chị Đ, anh V không có tài sản chung.

Anh V vẫn đăng ký hộ khẩu tại thôn X, xã A, huyện Quỳnh Phụ. Hiện nay anh V làm nghề lao động tự do tại Bắc Ninh, anh V thường xuyên về nhà và liên lạc với ông, bà. Gia đình ông, bà đã nhận được các văn bản, quyết định tố tụng của Tòa án giao cho anh V và thông báo, giao cho anh V biết. Quan điểm của anh V về việc Chị Đ xin ly hôn thì anh cũng đồng ý ly hôn. Về con chung: vợ chồng không có con chung. Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

- Tại biên bản xác minh với cơ sở thôn Xuân Lai, xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình thể hiện:

Chị Ma Thị Đ và anh Nguyễn Hữu V là vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại UBND xã A vào ngày 16/9/2015. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống cùng gia đình anh V một thời gian thì chuyển lên Bắc Ninh làm ăn sinh sống. Quá trình chung sống vợ chồng Chị Đ, anh V có mâu thuẫn, vợ chồng đã ly thân từ tháng 9/2019 đến nay. Nay Chị Đ có đơn xin ly hôn đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Về con chung: Chị Đ và anh V không có con chung. Về tài sản chung: Cơ sở thôn không nắm rõ.

- Tại phiên toà, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình có quan điểm cho rằng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn đã chấp hành đúng pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng. Bị đơn không tham gia tố tụng là thể hiện chấp hành chưa tốt pháp luật tố tụng dân sự. Về ý kiến giải quyết vụ án, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình giải quyết theo hướng: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ngoài ra, nguyên đơn phải nộp án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát không có yêu cầu, kiến nghị gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tranh chấp ly hôn giữa Chị Ma Thị Đ và anh Nguyễn Hữu V là tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn có địa chỉ thường trú tại xã A, huyện Quỳnh Phụ nên Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn hiện không có mặt tại địa phương nhưng vẫn thường xuyên liên lạc về gia đình, không cung cấp cho nguyên đơn biết địa chỉ hiện nay ở đâu là thuộc trường hợp cố tình giấu địa chỉ. Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng như: Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo về việc thu thập được tài liệu, chứng cứ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa… cho bị đơn nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việc thu thập chứng cứ, xác minh về tình trạng hôn nhân và địa chỉ của bị đơn, vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng theo Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, quan hệ hôn nhân của Chị Đ, anh V được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình vào ngày 16/9/2015 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn và chung sống được một thời gian thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 9/2019 đến nay, không hỏi han, chia sẻ với nhau. Quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án, mặc dù biết được việc Chị Đ đề nghị ly hôn nhưng anh V không trực tiếp đến trình bày quan điểm với Tòa án. Điều này chứng tỏ anh V không có thiện chí hòa giải để vợ chồng đoàn tụ. Như vậy có cơ sở để xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa Chị Đ, anh V đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Đ, xử cho chị được ly hôn anh V là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về quan hệ con chung: Chị Ma Thị Đ và anh Nguyễn Hữu V không có con chung.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Ma Thị Đ không yêu cầu giải quyết, anh Nguyễn Hữu V không có ý kiến trình bày nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Ma Thị Đ phải nộp án phí dân sự sơ thẩm; các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho Chị Ma Thị Đ được ly hôn anh Nguyễn Hữu V.

2. Về quan hệ con chung: Chị Ma Thị Đ và anh Nguyễn Hữu V không có con chung.

3. Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị Ma Thị Đ phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) Chị Đ đã nộp theo Biên lai thu số 0004555 ngày 10/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình được chuyển thành tiền án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Ma Thị Đ có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Nguyễn Hữu V có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 14/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:14/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về