TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 87/2021/HNGĐ-ST NGÀY 16/07/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 16 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 283/2020/TLST - HNGĐ ngày 11 tháng 6 năm 2020 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình - Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 133/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Thị Xà R, sinh năm: 1993 (có đơn đề nghị vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp N, xã N1, huyện G, tỉnh Kiên Giang.
2. Bị đơn: Anh Danh H, sinh năm: 1991 (vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp C, xã T, huyện G, tỉnh Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 03/5/2020 và quá trình giải quyết vụ án, chị Thị Xà R là nguyên đơn trình bày:
Hôn nhân giữa chị và anh H do hai bên tự tìm hiểu và tự nguyện kết hôn năm 2019, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện G, vợ chồng chung sống hạnh phúc hơn 08 tháng thì xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, không hợp tính tình, anh H chỉ biết lo cho bản thân mình, không có trách nhiệm với vợ con. Sau khi chị làm đơn khởi kiện, vợ chồng tự hàn gắn tình cảm chung sống với nhau được vài tháng tiếp tục xảy ra mâu thuẫn trầm trọng. Tháng 3/2021, chị và anh H tự chấm dứt quan hệ hôn nhân và sống ly thân với nhau cho đến nay, người nào chỉ biết bổn phận người đó.
Quá trình chung sống chị và anh H có một người con là cháu Danh Thị Đoan Q, sinh ngày 29/01/2020, do chị trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.
Chị R xác định không còn tình cảm và không thể tiếp tục chung sống với anh H nên yêu cầu được ly hôn; về con: Theo đơn khởi kiện chị R yêu cầu được quyền nuôi cháu Q, yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án chị R xác định giữa chị và anh H không có tranh chấp về việc nuôi con nên rút yêu cầu tranh chấp về con khi ly hôn với anh H, đề nghị Tòa án ghi nhận việc chị nhận trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Q; về tài sản và nợ: Chị R không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Anh Danh H là bị đơn: Không nộp văn bản thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu của chị R, không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.
Phát biểu quan điểm của đại diện Viện kiểm sát:
Thẩm phán xác định quan hệ tranh chấp, tư cách đương sự, thẩm quyền giải quyết vụ án, xem xét việc thụ lý vụ án, cấp tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng, tiến hành thu thập chứng cứ và thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên, vẫn còn vi phạm về thời hạn xét xử theo Điều 203 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị khắc phục.
Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với anh H chưa thực hiện đúng về quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ án: Chị R và anh H kết hôn năm 2019, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên hôn nhân của anh, chị là hợp pháp. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, sau đó xảy ra mâu thuẫn và vợ chồng đã sống ly thân với nhau từ tháng 3/2021 cho đến nay, không còn quý trọng, quan tâm nhau, chị R xác định không còn tình cảm và không thể tiếp tục chung sống với anh H nên cương quyết yêu cầu được ly hôn; anh H không có ý kiến phản đối. Xét thấy, hôn nhân của chị R và anh H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị R đối với anh H.
Về con chung: Chị R tự nguyện rút yêu cầu về việc tranh chấp nuôi con khi ly hôn với anh H. Căn cứ khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị chấp nhận và đình chỉ xét xử, nếu sau này có tranh chấp anh, chị có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết trong một vụ việc khác.
Về tài sản và nợ chung: Chị R không yêu cầu giải quyết, đề nghị không xét.
Về án phí: Đề nghị buộc chị R phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Chị Thị Xà R yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, nuôi con với anh Danh H, đây là tranh chấp về ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Anh Danh H là bị đơn cư trú tại huyện G, tỉnh Kiên Giang. Căn cứ khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh H. Tuy nhiên, anh H không đến Tòa án để tham gia phiên họp, hòa giải, phiên tòa là không thực hiện đúng về quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do chị R giao nộp và Tòa án thu thập để giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 96 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Mặt khác, anh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan; chị R có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 - 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh H và chị R.
[2]. Về nội dung vụ án:
Về quan hệ hôn nhân: Chị R và anh H kết hôn năm 2019, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 08/01/2019 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện G, tỉnh Kiên Giang nên quan hệ hôn nhân giữa anh, chị là hợp pháp.
Chị R xác định sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc hơn 08 tháng thì xảy ra mâu thuẫn, sau khi chị làm đơn khởi kiện gửi Tòa án, chị và anh H tự hàn gắn tình cảm chung sống với nhau được vài tháng tiếp tục xảy ra mâu thuẫn trầm trọng do không hợp tính tình, anh H thiếu trách nhiệm với vợ con. Tháng 3/2021, chị và anh H tự chấm dứt quan hệ vợ chồng và sống ly thân với nhau cho đến nay, không còn quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Do đó, chị R và anh H đều vi phạm nghiêm trọng về quyền, nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Tòa án xác minh về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa chị R và anh H tại nơi cư trú, Phó ấp C, xã T, huyện G không biết được nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa chị R và anh H.
Vì vậy, Tòa án tiến hành thủ tục hòa giải để giải quyết mâu thuẫn, tạo điều kiện hàn gắn tình cảm vợ chồng cho chị R và anh H nhưng không đạt kết quả do anh H vắng mặt, chị R xác định không còn tình cảm và cương quyết yêu cầu ly hôn, điều này cho thấy tình cảm vợ chồng của chị R và anh H đã phai nhạt, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị R yêu cầu ly hôn với anh H là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Về con: Chị R và anh H có một người con chung là cháu Danh Thị Đoan Q, sinh ngày 29/01/2020. Theo đơn khởi kiện chị R yêu cầu được quyền nuôi cháu Q, yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án, chị R xác định chị có đủ điều kiện nuôi con, giữa chị và anh H không có tranh chấp về việc nuôi con chung nên chị rút lại yêu cầu giải quyết về con. Xét thấy, việc rút yêu cầu tranh chấp về con khi ly hôn của chị R là tự nguyện, không trái với quy định của pháp luật. Căn cứ khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử yêu cầu nuôi con khi ly hôn giữa chị R và anh H. Đồng thời, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu Q, Hội đồng xét xử ghi nhận ý kiến của chị R nhận trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Q.
Trường hợp, chị R và anh H có tranh chấp về việc nuôi con chung thì có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết trong một vụ việc khác.
Về tài sản và nợ chung: Chị R không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.
[3]. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị R phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng.
[4]. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 96, khoản 1 - 3 Điều 228, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 244, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 56, Điều 57 của Luật hôn nhân và gia đình;
Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Thị Xà R đối với anh Danh H.
2. Về con chung: Đình chỉ xét xử yêu cầu tranh chấp về con khi ly hôn giữa chị Thị Xà R đối với anh Danh H. Ghi nhận ý kiến của chị R nhận trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Danh Thị Đoan Q, sinh ngày 29/01/2020. Trường hợp, chị R và anh H có tranh chấp về việc nuôi con thì có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết trong một vụ việc khác.
3. Về án phí: Chị Thị Xà R phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003420 ngày 08/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Kiên Giang, chị R đã nộp đủ án phí sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Chị Thị Xà R và anh Danh H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định là 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự
Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con khi ly hôn số 87/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 87/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 16/07/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về