TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CM, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 49/2020/HNGĐ-ST NGÀY 08/05/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 08 tháng 5 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện CM, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 97/2020/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 02 năm 2020 về tranh chấp “Hôn nhân và gia đình – Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 109/2020/QĐXXST-HNGĐ, ngày 26 tháng 03 năm 2020, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1981; vắng mặt. Địa chỉ: ấp PT 3, xã KA, huyện CM, tỉnh An Giang.
2. Bị đơn: anh Huỳnh Văn N, sinh năm 1978; vắng mặt .Địa chỉ: ấp PT 3, xã KA, huyện CM, tỉnh An Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong Đơn khởi kiện ngày 31/01/2020 và quá trình tòa án giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày:
Sau thời gian tìm hiểu nhau về tình cảm, chị với anh Huỳnh Văn N quyết định thành vợ chồng, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn theo quy định và được Ủy ban nhân dân xã KA, huyện CM, tỉnh An Giang cấp Giấy Chứng nhận kết hôn số 295 ngày 08/10/2008 (Giấy chứng nhận kết hôn số 295). Thời gian đầu, vợ chồng chung sống có hạnh phúc đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân do bất đồng quan điểm, vợ chồng thường xuyên cãi nhau từ đó chị đã quyết định bỏ đi nên vợ chồng không còn chung sống, không còn tới lui.
Về con chung: vợ chồng có 01 con chung tên Huỳnh Thị Tr, sinh ngày 03/7/2013 đang do chị nuôi dưỡng từ khi chị bỏ đi đến nay.
Về tài sản chung: không có.
Về nợ chung: vợ chồng không nợ ai và cũng không ai nợ vợ chồng.
Nhận thấy tình của chị dành cho anh N không còn nên có yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh N. Về con chung thì chị yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi cháu Huỳnh Thị Tr, không yêu cầu anh N phải cấp dưỡng cho con.Về tài sản chung và nợ phải thu, phải trả chung của vợ chồng do không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn là anh Huỳnh Văn N đã được tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án nhưng vẫn không gửi văn bản nêu ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án đã triệu tập anh N đến tham dự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải đến lần thứ hai và triệu tập đến tham dự phiên tòa đến lần thứ hai nhưng anh N vẫn vắng mặt, không rõ lí do.
Tại bản tự khai ngày 31/01/2020 của cháu Huỳnh Thị Tr có nội dụng thể hiện nguyện vọng của cháu là mong Tòa án xem xét cho cháu được tiếp tục chung sống với mẹ ruột là chị Nguyễn Thị H trong trường hợp Tòa án chấp nhận cho chị H được ly hôn với anh N.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Chị Nguyễn Thị H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với chồng là anh Huỳnh Văn N và được quyền tiếp tục nuôi con chung nên quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp về Hôn nhân và Gia đình - Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Anh N với tư cách là bị đơn trong vụ án có nơi cư trú tại ấp Phú Thương 3, xã KA, huyện CM, tỉnh An Giang nên căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện CM, tỉnh An Giang.
Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh N đến lần thứ hai nhưng anh vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy, sự vắng mặt này của anh N không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của anh và không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh N là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2] Về nội dung:
Về quan hệ hôn nhân: chị H cho rằng sau thời gian tìm hiểu nhau về tình cảm, chị với anh N đã quyết định thành vợ chồng, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn. Thời gian đầu vợ chồng chung sống có hạnh phúc và có một con chung tên Huỳnh Thị Tr nhưng đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân do bất đồng quan điểm, vợ chồng thường xuyên cãi nhau từ đó chị đã quyết định dẫn theo con chung bỏ đi nên vợ chồng không còn chung sống, không còn tới lui cho đến nay. Chứng minh cho lời trình bày của mình, chị H có cung cấp Giấy CN kết hôn số 295, Giấy khai sinh số 449/2013 của cháu Huỳnh Thị Tr; như vậy chị H đã thực hiện nghĩa vụ chứng minh của mình theo quy định tại khoản 1 Điều 91 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Ngược lại, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, mặc dù Tòa đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định nhưng anh N vẫn không gửi văn bản nêu ý kiến của mình về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và cũng không tham dự phiên tòa, không cung cấp bất kỳ chứng cứ nào để chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 91 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Do đó, lời trình bày và chứng cứ mà chị H cung cấp là cơ sở để Tòa án xác định hôn nhân giữa chị H và anh N là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận nhưng vì mâu thuẫn gia đình không thể hàn gắn làm cho vợ chồng không còn chung sống, không quan tâm, chăm sóc, lo lắng cho nhau kể từ năm 2013 đến nay là có thật; điều này cho thấy anh chị đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị H có yêu cầu được ly hôn với anh N là hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được Tòa án chấp nhận.
Về quan hệ con chung: chị H xác định quá trình chung sống, chị với anh N có 01 con chung tên Huỳnh Thị Tr, sinh ngày 03/7/2013 đang do chị H nuôi dưỡng, chị yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi cháu Tr. Xét thấy, từ khi vợ chồng không còn chung sống cho đến nay, cháu Tr sống chung với chị H, dưới sự chăm sóc, giáo dục của chị H, cháu Tr đang sinh sống ổn định và phát triển bình thường, cho thấy chị H có đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu, do đó yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi con chung của chị H phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nghĩ nên chấp nhận. Anh N là người không trược tiếp nuôi con nhưng theo quy định tại khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì sau khi ly hôn, anh vẫn có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về cấp dưỡng cho con, do chị H không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết. Tuy nhiên, vì quyền lợi của con, khi cần thiết một hoặc hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng cho con.
Về quan hệ tài sản chung: chị H trình bày vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy Tòa án không xem xét nhưng nếu sau này các bên chứng minh vợ chồng có tài sản chung trong thời hôn nhân mà không tự thỏa thuận phân chia được thì có quyền khởi kiện yêu cầu chia tài sản sau khi ly hôn ở vụ án dân sự khác.
Về quan hệ nợ chung: chị H cho rằng vợ chồng không nợ ai và không ai nợ vợ chồng nên không có yêu cầu gì, vì vậy Tòa án cũng không xem xét giải quyết nhưng nếu sau này có bên thứ ba bất kỳ chứng minh được nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì chị H vẫn phải cùng anh N liên đới chịu trách nhiệm trong vụ án dân sự khác.
[3] Về án phí: chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không giá ngạch đối với yêu cầu ly hôn là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) và được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0007940 ngày 31/01/2020 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện CM, tỉnh An Giang. Anh N không phải chịu án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1, khoản 2 Điều 91; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Khoản 1 Điều 56; Điều 81 và khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Huỳnh Văn N.
2. Về con chung: chị H được quyền tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Huỳnh Thị Tr, sinh ngày 03/7/2013. Anh N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con, khi cần thiết một hoặc hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng cho con.
3. Về án phí: chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không giá ngạch là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) và được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0007940 ngày 31/01/2020 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện CM, tỉnh An Giang. Anh N không phải chịu án phí.
Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 49/2020/HNGĐ-ST ngày 08/05/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 49/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 08/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về