Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 34/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YL, TỈNH PT

BẢN ÁN 34/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/07/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Trong ngày 23 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện YL, tỉnh PT xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 111/TLST/HNGĐ ngày 14 tháng 6 năm 2021 về việc tranh chấp về Hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2021/QĐXXST ngày 08 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Hà Thị T, sinh năm1972 vắng mặt (Có đơn xin xử vắng mặt). Trú quán: Khu Đ, xã M l, huyện YL, tỉnh PT.

Bị đơn: Anh Triệu Văn N, sinh năm 1968 vắng mặt (Có đơn xin xử vắng mặt).

Địa chỉ: Khu Đ a, xã M l, huyện YL, tỉnh PT.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai tiếp theo tại Tòa án nguyên đơn, Chị Hà Thị T và bị đơn anh Triệu Văn N đều thống nhất trình bày: Chúng Tôi tự nguyện kết hôn, có đăng kí kết hôn tại UBND xã Lương Sơn, huyện YL, tỉnh PT năm 1990, nhưng chúng tôi đã làm mất giấy Chứng nhận kết hôn. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại khu Đ a, xã M l, huyện YL cho đến nay. Vợ chồng hòa thuận đến mấy năm gần đây thì sẩy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong làm ăn, mất lòng tin ở nhau, anh N lại mải chơi, thiếu quan t đến gia đình, chúng tôi đã khắc phục nhiều lần và được gia đình góp ý nhưng không có kết quả.

Nay cả chị T và anh N đều xin ly hôn.

Về con chung: Chị T và anh N trình bày vợ chồng có hai con chung là: Triệu Thị H, sinh ngày 05/11/1992 và Triệu Văn S, sinh ngày 10/ 10/1994.

Chị T và anh N trình bày: Các con đã trưởng thành lao động tự túc được nên thỏa thuận không đề nghị giải quyết.

Về tài sản chung, vay nợ và công sức: Chị T và anh N đều trình bày đã tự giải quyết nên thỏa thuận không đề nghị giải quyết .

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của người tiến hành tố tụng, từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, đều thực hiện đúng quy định của Pháp luật; Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng, đối với nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Pháp luật, bị đơn không có mặt tại phiên tòa hôm nay nhưng tòa án đã tiến hành các thủ tục niêm yết theo đúng quy định của bộ luật tố tụng dân sự. Kiểm sát viên có quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ vào khoản 1 điều 56, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, điều 238, khoản 1 điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Hà Thị T được ly hôn anh Triệu Văn N.

Về con chung và các mối quan hệ khác : Tài sản chung, công nợ, công sức đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét;

Chị T phải chịu 300.000đ án phí theo quy định của Pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét, đánh giá đầy đủ và toàn diện chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định:

Về quan hệ hôn nhân: chị Hà Thị T và anh Triệu Văn N đều trình bày: Anh chị tự nguyện kết hôn, đã đăng kí kết hôn tại UBND xã Lương Sơn, huyện Y L, tỉnh PT năm 1990, nhưng đã làm mất giấy Chứng nhận kết hôn. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại khu Đ a, xã M l, huyện YL cho đến nay. Vợ chồng hòa thuận đến mấy năm gần đây thì sẩy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong làm ăn, mất lòng tin ở nhau, anh N lại mải chơi, thiếu quan t đến gia đình, anh chị đã khắc phục nhiều lần và được gia đình góp ý nhưng không có kết quả.

Nay cả chị T và anh N đều nhất xin ly hôn.

 Việc chị T và anh N đều trình bày là có đăng ký kết hôn tại UBND xã Lương Sơn năm 1990 nhưng đã làm mất giấy chứng nhận kết hôn. Tại đơn xin xác nhận đăng ký kết hôn của chị T thì UBND xã Lương Sơn xác nhận : Hiện tại UBND xã Lương Sơn không còn lưu trữ sổ đăng ký kết hôn năm 1990, nên không xác định được chị T và anh N có đăng ký kết hôn hay không.

Qua xác minh tại UBND xã Lương Sơn cũng như xác nhận của UBND xã trong đơn đề nghị của chị T thì hiện tại xã không còn lưu sổ đăng ký kết hôn năm 1990, mà chỉ còn lưu sổ từ năm 1994 trở lại đây. Cho nên UBND xã cũng không có căn cứ nào để xác định chị T và anh N có đăng ký kết hôn hay không. Do đó không có cơ sở để công nhận chị T và anh N có đăng ký kết hôn, Chị T và anh N cũng không xuất trình được chứng cứ gì khác để chứng minh. Do đó không công nhận chị T và anh N là vợ chồng.

Về con chung, tài sản chung , vay nợ và công sức: Anh chị không đề nghị giải quyết nên hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Chị T phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào khoản 8 Điều 28, điểm a, khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 238, khoản 1 điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1.Về quan hệ hôn nhân: Xử không công nhận chị Hà Thị T và anh Triệu Văn N là vợ chồng.

2. Về án phí: Chị Hà Thị T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm. Xác nhận chị T đã nộp tạm ứng 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí số: A A/2020/ 0004578 ngày 14/ 6 /2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện YL, tỉnh PT. Chị T đã nộp đủ án phí.

Báo cho chị Hà Thị T và anh Triệu Văn N biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án sơ thẩm hoặc bản án được niêm yết tại Ủy ban nhân dân xã nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 34/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:34/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Lập - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về