Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 10/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH CHƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 10/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/01/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 20 tháng 01 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Chương xét xử công khai vụ án thụ lý số 123/ 2021/TLST-HNGĐ, ngày 24 tháng 11 năm 2021 về việc Tranh chấp Hôn nhân gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2022/QĐST-HNGĐ, ngày 06 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Tr, sinh năm 1998; Nơi ĐKNKTT: Thôn Minh Đức, xã Võ Liệt, huyện TC, tỉnh NA.

Chỗ ở hiện nay: Thôn CT, xã VL, huyện TC, tỉnh NA. Có mặt tại phiên tòa.

Bị đơn: Anh Nguyễn Thế Đ, sinh năm 1997; Nơi ĐKNKTT: Thôn MĐ , xã VL, huyện TC, tỉnh NA. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, trong bản tự khai và tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tr trình bày:

Chị và anh Nguyễn Thế Đ kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện có được tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã VL, huyện TC, tỉnh NA vào ngày 05 tháng 02 năm 2020.

Sau khi kết hôn xong vợ chồng về làm ăn, sinh sống tại thôn MĐ xã VL, huyện TC, tỉnh NA. Cuộc sống chung vợ chồng hạnh phúc không được bao lâu thì phát sinh mâu thuẫn và mâu thuẫn ngày càng trở nên trầm trọng Về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do tình tình không hợp nhau. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chòng là không còn nữa nên nguyện vọng của chị là muốn được ly hôn với anh Nguyễn Thế Đ.

Về nuôi con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Thế Ph, sinh ngày 29 tháng 3 năm 2020. Nay ly hôn nguyện vọng của chị là muốn được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thế Ph và không yêu cầu anh Nguyễn Thế Đ góp cấp dưỡng nuôi con cho chị.

Về phân chia tài sản: Chị không yêu cầu giải quyết.

Về nợ: Hiện nay vợ chồng không nợ gì ai và cũng không ai nợ gì vợ chồng.

Ý kiến của bị đơn anh Nguyễn Thế Đ. Anh thừa nhận điều kiện kết hôn của vợ chồng đúng như chị Nguyễn Thị Tr đã trình bày. Sau khi kết hôn với nhau tại Ủy ban nhân dân xã Võ Liệt, huyện TC, tỉnh NA vào ngày 05 tháng 02 năm 2020 thì vợ chồng anh, chị sống với nhau hạnh phúc không được bao lâu thì phát sinh mâu thuẫn.

Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do thiếu hiểu biết và cảm thông với nhau trong cuộc sống.

Nay anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa nên việc chị Nguyễn Thị Tr xin ly hôn với anh thì anh hoàn toàn nhất trí.

Về trách nhiệm nuôi con chung: Vợ chồng anh có 01 con chung là Nguyễn Thế Ph, sinh ngày 29 tháng 3 năm 2020. Hiện nay cháu đang sống cùng với anh.

Nay vợ chồng ly hôn nhau nguyện vọng của anh là muốn được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thế Ph. Không yêu cầu chị Nguyễn Thị Tr phải góp cấp dưỡng nuôi con cho anh.

Về phân chia tài sản chung và nợ: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TC, tỉnh NA phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng từ khi thụ lý giải quyết cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án hoàn toàn tuân thủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 28, Điều 35, Điều 147, Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân gia đình, xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Tr được ly hôn với anh Nguyễn Thế Đ.

Về trách nhiệm nuôi con chung: Giao cháu Nguyễn Thế Ph, sinh ngày 29 tháng 3 năm 2020 cho chị Nguyễn Thị Tr trực tiếp nuôi dưỡng và tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh Nguyễn Thế Đ.

Về tài sản chung và nợ: Không có yêu cầu nên không xem xét.

Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, nộp và quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc chị Nguyễn Thị Tr phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Đây là vụ án Tranh chấp Hôn nhân gia đình được quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn có nơi cư trú tại xã Võ Liệt, huyện TC, tỉnh NA. Cho nên việc thụ lý, giải quyết thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện TC, tỉnh NA.

Trong quá trình giải quyết vụ án anh Nguyễn Thế Đ có là đơn phản tố và khiếu nại với nội dung anh xin được ly hôn với chị Nguyễn Thị Tr và yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thế Ph, sinh ngày 29 tháng 3 năm 2020 và yêu cầu chị Nguyễn Thị Tr góp cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng và anh cho rằng việc Tòa án nhân dân huyện TC, tỉnh NA sau khi nhận được đơn phản tố của anh nhưng không ra Thông báo về việc phản tố là vi phạm thủ tục tố tụng. Việc Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn 01 tháng 06 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Xét thấy yêu cầu của anh về việc được ly hôn với chị Nguyễn Thị Tr và nguyện vọng của anh muốn được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thế Ph và yêu cầu cầu chị Nguyễn Thị Tr cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng không phải là yêu cầu phản tố. Bởi trong vụ án này anh là bị đơn. Sau khi nhận được Thông báo thụ lý vụ án của Tòa án nhân dân huyện TC, tỉnh NA về những yêu cầu của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tr thì anh có ý kiến về việc ly hôn và trách nhiệm nuôi con chung sau ly hôn nên Tòa án không ra thông báo về việc phản tố là đúng quy định.

Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự thì việc Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử khi đã thu thập đầy đủ các nội dung liên quan đến vụ án Cho nên việc anh khiếu nại Tòa án nhân dân huyện TC, tỉnh NA ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử sau khi thụ lý 01 tháng 06 ngày là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là không có cơ sở.

[2] Về nội dung vụ án: Chị Nguyễn Thị Tr và anh Nguyễn Thế Đ kết hôn với nhau hợp pháp có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Võ Liệt theo đúng quy định. Sau khi kết hôn vợ chồng về sinh sống với nhau hạnh phúc không được bao lâu thì phát sinh mâu thuẫn. Nay cả hai bên đề xét thấy tình cảm vợ chồng là không còn nữa nên đều nhất trí ly hôn nhau. Xét thấy tình trạng hôn nhân đã đến mức trầm trọng. Nếu kéo dài cuộc hôn nhân này thì chỉ là hình thức chứ mục đích hôn nhân không đạt được cho nên cần chấp nhận cho chị Nguyễn Thị Tr được ly hôn với anh Nguyễn Thế Đ là đúng quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm nuôi con: Hai bên thống nhất vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Thế Ph, sinh ngày 29 tháng 3 năm 2020. Nay ly hôn chị Nguyễn Thị Tr và anh Nguyễn Thế Đ đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thế Ph và không yêu cầu bên không trực tiếp nuôi con góp cấp dưỡng nuôi con chung. Xét nguyện vọng được trực tiếp nuôi con của anh Nguyễn Thế Đ và chị Nguyễn Thị Tr là chính đáng. Nhưng hiện nay cháu Nguyễn Thế Ph đang còn nhỏ, dưới 36 tháng tuổi cho nên cần sự chăm sóc của người mẹ. Cho nên cần giáo cháu Nguyễn Thế Ph cho chị Nguyễn Thị Tr trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh Nguyễn Thế Đ là phù hợp.

Về phân chia tài sản chung: Không có yêu cầu nên không xem xét.

[3] Về án phí: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tr phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

[4] Về ý kiến phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TC, tỉnh NA tại phiên tòa. Xét thấy việc tuân theo quy định pháp luật và các nội dung liên quan đến việc giải quyết vụ án là có cơ sở, đúng quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điều 28, Điều 35, Điều 147, Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, nộp và quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Tr được ly hôn anh Nguyễn Thế Đ.

Về trách nhiệm nuôi con: Giao cháu Nguyễn Thế Ph, sinh ngày 29 tháng 3 năm 2020 cho chị Nguyễn Thị Tr trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dương nuôi con cho anh Nguyễn Thế Đ.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghÜa vô thăm nom con mà không ai được quyền cản trở người đó thực hiện quyền này.

Về chia tài sản chung và nợ: Không có yêu cầu nên không xem xét Về án phí: Buộc chị Nguyễn Thị Tr phải chịu 300.000 đồng ( ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí ly hôn sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0009005 ngày 24 tháng 11 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện TC, tỉnh NA. Chị Nguyễn Thị Tr đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 10/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:10/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Chương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về