TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 138/2022/HNGĐ-ST NGÀY 09/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 09 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 214/2022/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 02 năm 2022 về việc “tranh chấp về hôn nhân và gia đình ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 172/2 0 2 2 /QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 155/2022/QĐST-DS ngày 27 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 202/2022/QĐST- HNGĐ ngày 19 tháng 5 năm 2022; giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Lê Cẩm T, sinh năm: 1989; địa chỉ: số nhà 464, ấp Th1, tt CM, huyện CM, tỉnh An Giang; địa chỉ liên lạc: số nhà 69, ấp LT!, xã LĐA, huyện CM, tỉnh An Giang; có mặt.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Minh U, sinh năm: 1991; địa chỉ: số nhà 464, ấp Th1, tt CM, huyện CM, tỉnh An Giang; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Lê Cẩm T trình bày, bà và ông Nguyễn Minh U, sinh năm 1991 do quen biết và tiến tới hôn nhân năm 2010. Đăng ký kết hôn ngày 03/12/2010 tại Ủy ban nhân dân xã LĐA, huyện CM, tỉnh An Giang. Sau khi kết hôn thì vợ chồng chung sống tại ấp LT!, xã LĐA, huyện CM, tỉnh An Giang, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân của mâu thuẫn là do ông U thường xuyên ăn nhậu, không quan tâm gia đình, đánh đập bà. Lần gần nhất ông U đánh bà T vào khoảng tháng 8/2021, bà T có chụp hình lại và xin giao nộp hình ảnh bà bị ông U đánh cho Tòa án, việc ông U đánh bà thì có bà Hành (cùng xóm nhà tôi) và ông Mười L(cùng xóm nhà tôi) biết việc tôi bị ông U đánh. Khoảng giữa 2021, bà T có nộp đơn khởi kiện xin ly hôn với ông U, sau đó được Tòa án hòa giải; bà T cho ông U cơ hội làm lại để quay về chung sống nên bà T đã rút đơn khởi kiên. Tuy nhiên, ông U không thay đổi nên bà T không thể tiếp tục chung sống với ông U nữa.
Nhận thấy mâu thuẫn của vợ chồng đã quá trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà T yêu cầu được ly hôn với ông U.
- Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Minh Q, sinh ngày 02/11/2010 và Nguyễn Lê Thanh N, sinh ngày 06/6/2015. Hiện con chung đang chung sống với bà T. Sau khi ly hôn, bà T yêu cầu nuôi con chung và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Hiện bà T đang làm công nhân tại công ty An Giang SAMHO ở xã Bình Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. Thu nhập bình Q mỗi tháng 7.000.000 đông/tháng.
- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về án phí: Bà T tự nguyện chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
- Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, bị đơn ông Nguyễn Minh U trình bày, ông và bà T do quen biết và tiến tới hôn nhân vào năm 2010. Đăng ký kết hôn ngày 03/12/2010 tại Ủy ban nhân dân xã LĐA, huyện CM, tỉnh An Giang. Sau khi kết hôn đến năm 2019, ông U có ăn chơi, uống rượu, bia nên hai vợ chồng xảy ra cự cãi, bà T bỏ đi và hai vợ chồng ly thân từ cuối năm 2019. Trong quá ly thân thì ông U có cố gắng hàn gắn tình cảm với vợ nhưng không thành; nguyên nhân giữa ông với bà T mâu thuẫn là do ông U như: không đưa tiền cho vợ, ăn nhậu, chơi bời; khoảng tháng 8/2021 (trong đợt dịch Covid 19), do bà T đi nhậu hai bên xảy ra cự cãi, khi cự cãi ông U bực tức và cầm con dao làm cá (dài khoảng hơn 20cm) để hù dọa bà T dẫn đến việc bà T bỏ chạy và bị va đập vào thành giường nên bị thâm và sưng ở mắt bên trái (ông U công nhận đúng như hình ảnh mà bà T đã cung cấp cho Tòa án). Đối với yêu cầu ly hôn của bà T thì ông U không đồng ý, vì ông U còn thương vợ.
- Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Minh Q, sinh ngày 02/11/2010 và Nguyễn Lê Thanh N, sinh ngày 06/6/2015. Hiện con chung đang chung sống với bà ngoại. Sau khi ly hôn, ông U yêu cầu cả hai vợ chồng cùng nuôi con. Hiện ông U đang làm nghề thầu xây dựng, thu nhập bình Q mỗi tháng 9.000.000 đồng/tháng - Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa:
- Bà Lê Cẩm T trình bày ý kiến, yêu cầu như đã cung cấp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và xác định không có tài liệu, chứng cứ khác giao nộp cho Tòa án chứng minh cho ý kiến, yêu cầu của mình, bà xác định các con chung bà gửi tại nhà bà ngoại để tiện chăm sóc, do bà đi làm, điều kiện lại không biết chạy xe honda, nên ngày nghỉ trong tuần mới về chăm lo cho các con được, việc ông U đề nghị đoàn tụ bà không đồng ý, bà yêu cầu ly hôn như đã trình bày trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.
- Ông Nguyễn Minh U tại phiên tòa vắng mặt, nên không ghi nhận được ý kiến, nên Hội đồng xét xử thống nhất xét xử vắng mặt ông U theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:
Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71 và 234 Bộ luật Tố tụng dân sự; tại phiên tòa ông U vắng mặt lần thứ 2 nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt ông U là có căn cứ.
Về việc giải quyết vụ án: giữa bà Lê Cẩm T và ông Nguyễn Minh U do quen biết, khi kết hôn có đăng ký kết hôn, nên hôn nhân của bà T, ông U được pháp luật thừa nhận, bảo vệ.
Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng của bà T, ông U phát sinh do ông U thường xuyên uống rượu, bia, không lo cho gia đình, có hành vi bạo lực gia đình. Khoảng giữa năm 2021, bà T có nộp đơn khởi kiện xin ly hôn với ông U, sau đó được Tòa án hòa giải bà T cho ông U cơ hội hàn gắn nên bà T đã rút đơn khởi kiện, tuy nhiên ông U không thay đổi. Nhận thấy cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt đượcm nên bà T yêu cầu ly hôn với ông U là có căn cứ, phù hợp theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và Gia đình.
Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Minh Q, sinh ngày 02/11/2010 và Nguyễn Lê Thanh N, sinh ngày 06/6/2015, hiện con chung đang sống cùng bà T, sau ly hôn bà T yêu cầu nuôi con, không yêu cầu ông U phải cấp dưỡng nuôi con.
Xét thấy, việc giao con chưa thành niên cho vợ hay chồng chăm sóc, nuôi dưỡng, cần xem xét đến điều kiện phát triển và nguyện vọng của con chung. Từ khi ly thân đến nay, 02 cháu sống với bà T phát triển bình thường về thể chất, tinh thần. Mặt khác, tại biên bản ghi nhận ý kiến của các cháu Q, N đều có nguyện vọng được sống chung với bà T. Để ổn dịnh cuốc sống cho các chua thiết nghĩ tiếp tục giao cháu Q, cháu N cho bà T chăm sóc, nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con, do bà T không yêu cầu nên không đề cập đến.
Về tài sản chung, nợ chung: không có nên không đề cập đến.
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xem xét, quyết định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Lê Cẩm T khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Minh U, cả bà và ông U đều cư trú trên địa bàn huyện Chợ Mới. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2] Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa, ông Nguyễn Minh U vắng mặt lần thứ 2, nên căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử thống nhất xét xử vắng mặt ông U.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Cẩm T và ông Nguyễn Minh U kết hôn do tự tìm hiểu, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc, giữa bà Lê Cẩm T và ông Nguyễn Minh U kết hôn là đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8, 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, nên hôn nhân giữa bà Ý và ông U được pháp luật bảo vệ và thừa nhận.
Trong giai đoan chuẩn bị xét xử, cũng như tại phiên tòa bà T đều khẳng định quá trình chung sống giữa bà với ông U phát sinh mâu thuẫn chủ yếu do vấn đề tài chính, từ đó vợ chồng thường xuyên cự cãi, ông U cũng không chăm lo cho vợ, con, thường xuyên uống rượu bia, có hành vi bạo lực gia đình, tháng 8/2021 bà T đã yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, nhưng mong muốn hai vợ chồng hàn gắn tình cảm, nhưng ông U không thay đổi, nên bà T xác định không còn tình cảm với ông U; quá trình giải quyết vụ án ông U không đồng ý ly hôn với lý do còn thương vợ, nhưng ông thừa nhận trong thời gian chung sống vợ chồng có mâu thuẫn về tài chính do ông hay uống rượu, bia, không chăm lo cho vợ con, cả hai cũng đã sống ly thân từ năm 2019. Mặc dù, ông U đến nay khẳng định còn thương bà T, nhưng lại không đưa ra giải pháp nào để hàn gắn tình cảm, đề nghị cho thời gian 02 năm ông trả hết nợ do ông gây ra, sẽ lo cho vợ con.
Như vậy, mâu thuẫn giữa bà T và ông U là có, từ năm 2019 đến nay giữa hai vợ chồng không có tiếng nói chung. Do đó, cuộc sống hôn nhân giữa bà T và ông U là trầm trọng, không thể kéo dài, nếu có sống chung cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai; nên việc bà T yêu cầu ly hôn là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T.
[2.2] Về quan hệ con chung: bà Lê Cẩm T, ông Nguyễn Minh U xác định, ông bà có 02 con chung tên Nguyễn Minh Q, sinh ngày 02/11/2010 và Nguyễn Lê Thanh N, sinh ngày 06/6/2015. Sau khi ly hôn, bà T đề nghị được nuôi con, do hai con đã sống ổn định với bà T. Xét thấy, hiện nay cháu Q và cháu N đang được bà T chăm sóc, nuôi dưỡng, phát triển ổn định; ông U do không chấp nhận ly hôn, mong muốn hai vợ chồng cùng nuôi dạy con, không có yêu cầu nuôi con; quá trình giải quyết vụ án cán bộ Tòa án đã ghi nhận ý kiến của cháu Q, cháu N, các cháu đều mong muốn ở với bà T nếu giữa bà T và ông U phải ly hôn. Do đó, để đảm bảo ổn định cuộc sống cho các cháu, giúp các cháu phát triển tốt về thể chất, tinh thần; nên Hội đồng xét xử thống nhất giao cháu Q, cháu N cho bà T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng theo Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Về cấp dưỡng nuôi con chung, do bà T không yêu cầu ông U cấp dưỡng, nên không đề cập xem xét, giải quyết.
[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Cả bà T, ông U xác định không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết nên không đề cập giải quyết.
[2.4] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà Lê Cẩm T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Ông Nguyễn Minh U không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 5, khoản 1 Điều 53, các Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 144, 147, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Lê Cẩm T đối với ông Nguyễn Minh U;
1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Cẩm T được ly hôn với ông Nguyễn Minh U. Giấy chứng nhận kết hôn số 175/2010, quyển số 01/2010 ngày 03/12/2010 do Ủy ban nhân dân xã LĐA, huyện CM, tỉnh An Giang cấp cho bà Lê Cẩm T và ông Nguyễn Minh U, không còn giá trị pháp lý.
2. Về quan hệ con chung: Giao cho bà Lê Cẩm T được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Minh Q, sinh ngày 02/11/2010 và Nguyễn Lê Thanh N, sinh ngày 06/6/2015.
Bà Lê Cẩm T cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Nguyễn Minh U trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.
3. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: không đề cập giải quyết.
4. Về án phí sơ thẩm: Bà Lê Cẩm T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0010253 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 21 tháng 02 năm 2022; bà Lê Cẩm T đã nộp đủ án phí.
Ông Nguyễn Minh U không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo:
- Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bà Lê Cẩm T, có mặt, có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.
- Riêng thời hạn kháng cáo của ông Nguyễn Minh U là 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án dân sự, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./
Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình ly hôn, nuôi con số 138/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 138/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 09/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về