Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình - ly hôn, nuôi con số 82/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

 BẢN ÁN 82/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/10/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH - LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 19 tháng 10 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 283/2021/TLST-HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2021 về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình - Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 210/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 8 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 204/2021/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 9 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 260/2021/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 9 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nông Thanh T, sinh năm 1986.

Địa chỉ: số 551 tổ 16, ấp AD, xã AB, huyện CL, Đồng Tháp.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Phước T, sinh năm 1986. Địa chỉ: ấp An Lạc, xã AB, huyện CL, Đồng Tháp.

(Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, biên bản hòa giải ngày 05/7/2021 và tại phiên tòa sơ thẩm chị Nông Thanh T là nguyên đơn trình bày:

- Về hôn nhân: Chị T và anh T chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn vào năm 2015. Thời gian chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh T không yêu thương vợ con mà nhiều lần lừa dối chị T. Cuộc sống gia đình phát sinh nhiều mâu thuẫn dẫn đến ảnh hưởng tâm lý và chuyện học hành của con. Vợ chồng chính thức ly thân từ ngày 02 tháng 3 năm 2021 cho đến nay. Nay chị T nhận thấy vợ chồng không còn tình cảm, hôn nhân không có hạnh phúc nên chị T yêu cầu xin ly hôn với anh T.

- Về con chung: Chị T và anh T có 01 con chung tên Nguyễn Phước Lâm, sinh ngày 08/4/2016. Hiện nay con chung đang sống với chị T và chị T cho con ăn học đầy đủ. Khi ly hôn chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Chị T trình bày, chị T đủ điều kiện nuôi con bởi vì chị T hiện là nhân viên văn phòng ở trường THCS thị trấn Mỹ Thọ, huyện Cao Lãnh, thu nhập của chị T ổn định và môi trường làm việc trong ngành giáo dục nên sẽ tốt cho việc giáo dục, chăm sóc, nuôi dưỡng con.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: Không có nợ ai và cũng không cho ai mượn nợ.

Theo biên bản hòa giải ngày 05/7/2021, anh Nguyễn Phước T là bị đơn trình bày:

- Về hôn nhân: Anh T thừa nhận lời trình bày của chị T về thời gian kết hôn cũng như mâu thuẫn vợ chồng là đúng. Nay hôn nhân không có hạnh phúc nên anh T đồng ý ly hôn với chị T.

- Về con chung: Chị T và anh T có 01 con chung tên Nguyễn Phước Lâm, sinh ngày 08/4/2016. Khi ly hôn anh T yêu cầu được quyền nuôi con và không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: Không có nợ ai và cũng không cho ai mượn nợ.

* Tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án gồm:

- Giấy khai sinh con chung (bản sao).

- Giấy CMND tên Nông Thanh T và sổ hộ khẩu (bản sao).

- Giấy chứng nhận kết hôn (bản sao).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Chị Nông Thanh T có đơn yêu cầu được ly hôn, nuôi con với anh Nguyễn Phước T. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự xác định quan hệ pháp luật trong vụ án là “Tranh chấp hôn nhân và gia đình - Ly hôn, nuôi con”.

Anh Nguyễn Phước T là bị đơn trong vụ kiện có địa chỉ ở ấp An Lạc, xã AB, huyện Cao Lãnh, Đồng Tháp. Căn cứ vào khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

Anh Nguyễn Phước T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 02 nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa mà không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử T hành xét xử vắng mặt anh T là phù hợp theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị T, anh T chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã AB, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp vào năm 2015, do đó hôn nhân giữa chị T và anh T là hợp pháp. Chị T cho rằng thời gian chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh T không yêu thương vợ con mà nhiều lần lừa dối chị T. Cuộc sống gia đình phát sinh nhiều mâu thuẫn dẫn đến ảnh hưởng tâm lý và chuyện học hành của con. Vợ chồng chính thức ly thân từ ngày 02 tháng 3 năm 2021 cho đến nay. Anh T thừa nhận lời trình bày của chị T về thời gian kết hôn cũng như mâu thuẫn vợ chồng là đúng. Nay hôn nhân không có hạnh phúc nên anh T đồng ý ly hôn với chị T.

Từ những căn cứ nêu trên đủ cơ sở để xác định hôn nhân giữa chị T và anh T đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận đơn yêu cầu ly hôn của chị T.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Phước Lâm, sinh ngày 08/4/2016. Hiện nay con chung đang sống với chị T và chị T cho con ăn học đầy đủ. Khi ly hôn chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Chị T trình bày, chị T đủ điều kiện nuôi con bởi vì chị T hiện là nhân viên văn phòng ở trường THCS thị trấn Mỹ Thọ, huyện Cao Lãnh, thu nhập của chị T ổn định và môi trường làm việc trong ngành giáo dục nên sẽ tốt cho việc giáo dục, chăm sóc, nuôi dưỡng con. Anh T cũng có yêu cầu được quyền nuôi con và không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

Theo khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 7 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con ”.

Hội đồng xét xử xét thấy, việc giao con chung cho chị T hay cho anh T nuôi dưỡng là cần xem xét về điều kiện, quyền lợi mọi mặt của con chung. Xét thấy con chung đang sống với chị T, chị T cho con chung ăn học đầy đủ. Chị T là nhân viên văn phòng ở trường THCS thị trấn Mỹ Thọ, huyện Cao Lãnh, thu nhập của chị T ổn định và môi trường làm việc trong ngành giáo dục nên sẽ tốt cho việc giáo dục, chăm sóc, nuôi dưỡng con nên chị T đủ điều kiện nuôi con. Do đó để con chung tên Nguyễn Phước Lâm, sinh ngày 08/4/2016 cho chị T được tiếp tục nuôi dưỡng. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con do chị T không có yêu cầu.

Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được quyền cản trở.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Không có nợ ai và cũng không cho ai mượn nợ nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

* Về án phí:

Chị T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu của chị Nông Thanh T:

- Về hôn nhân: Chị Nông Thanh T được ly hôn với anh Nguyễn Phước T.

- Về con chung: Chị Nông Thanh T được tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Phước Lâm, sinh ngày 08/4/2016. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con do chị T không có yêu cầu.

Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được quyền cản trở.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Không có nợ ai và cũng không cho ai mượn nợ nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0012735 ngày 31 tháng 5 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lãnh. Như vậy tiền án phí chị T đã nộp xong.

Các đương sự được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình - ly hôn, nuôi con số 82/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:82/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lãnh - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về