TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 234/2020/HNGĐ-ST NGÀY 08/12/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 08 tháng 12 năm 2020 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 678/2020/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2020 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 258/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 193/2020/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1982; Địa chỉ: Thôn 2, xã M, huyện T1, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.
- Bị đơn: Anh Vũ Văn C, sinh năm 1979; Địa chỉ: Thôn 2, xã M, huyện T1, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 21 tháng 8 năm 2020 cùng các lời khai tại Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, chị Nguyễn Thị T (nguyên đơn) trình bày:
Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Văn C kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, được tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương năm 2000, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện T1, thành phố Hải Phòng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 23 ngày 21 tháng 6 năm 2000. Sau khi cưới vợ chồng sinh sống tại thôn 2, xã M, huyện T1, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, vợ chồng hoà thuận, hạnh phúc đến năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn căng thẳng nên vợ chồng đã ly thân từ đầu năm 2008 đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Vũ Văn C.
Về con chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Văn C có hai con chung tên là Vũ Tiến A sinh ngày 21/12/2000 và Vũ Thanh P sinh ngày 23/02/2007. Con tên Vũ Tiến A đã thành niên, khỏe mạnh và có khả năng lao động nên chị không có đề nghị gì. Hiện con tên Vũ Thanh P đang khỏe mạnh, phát triển bình thường và do anh Vũ Văn C đang nuôi dưỡng nên khi ly hôn chị đề nghị anh Vũ Văn C nuôi con. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, chị đề nghị để chị và anh Vũ Văn C tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Văn C không có tài sản chung, chị không đề nghị Tòa án giải quyết khi ly hôn.
Bị đơn là anh Vũ Văn C đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng không trình bày quan điểm của mình.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng, bị đơn chưa tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng. Về việc giải quyết nội dung vụ án thì đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 147, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Văn C. Giao con chung tên là Vũ Thanh P sinh ngày 23/02/2007 cho anh Vũ Văn C trực tiếp nuôi dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Văn C tự thỏa thuận giao nhận cho nhau. Về tài sản chung vợ chồng do Tòa án không thụ lý giải quyết khi ly hôn nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Về các tài liệu, chứng cứ và tình tiết của vụ án:
Các tình tiết, sự kiện không phải chứng minh, các tình tiết mà các bên đã thống nhất: Về quan hệ hôn nhân, con chung và lý do đề nghị Tòa án giải quyết các quan hệ đó phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà đương sự giao nộp, phù hợp với tài liệu do Tòa án thu thập được, anh Vũ Văn C không có ý kiến gì nên thuộc trường hợp không phải chứng minh; Quan hệ tài sản chung vợ chồng đương sự không yêu cầu giải quyết nên không đặt vấn đề phải chứng minh.
Các tình tiết mà các bên không thống nhất: Không có.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Đây là vụ án Ly hôn, tranh chấp về nuôi con quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Chị Nguyễn Thị T vắng mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, anh Vũ Văn C đã được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do; Căn cứ Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Văn C.
[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Văn C được xác lập theo Giấy chứng nhận kết hôn số số 23 ngày 21 tháng 6 năm 2000 của Ủy ban nhân dân xã M, huyện T1, thành phố Hải Phòng là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên thường xảy ra va chạm, mâu thuẫn trở nên căng thẳng, trầm trọng dẫn đến việc vợ chồng sống ly thân từ năm 2008 đến nay. Tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài và trầm trọng, hôn nhân không có hạnh phúc, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chị Nguyễn Thị T xin ly hôn với anh Vũ Văn C. Vì vậy, cần áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị T với anh Vũ Văn C.
[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Văn C có hai con chung tên là Vũ Tiến A sinh ngày 21/12/2000 và Vũ Thanh P sinh ngày 23/02/2007. Hiện nay con tên Vũ Tiến A đã đủ 18 tuổi và khỏe mạnh, có khả năng lao động nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Khi ly hôn chị Nguyễn Thị T đề nghị anh Vũ Văn C nuôi con tên Vũ Thanh P, anh Vũ Văn C không trình bày quan điểm của mình. Tài liệu, chứng cứ và lời trình bày của các đương sự thể hiện chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Văn C đều có điều kiện, khả năng và thời gian để chăm sóc con chung tốt, con chung đang do anh Vũ Văn C nuôi dưỡng, khỏe mạnh, phát triển bình thường và con có nguyện vọng ở với bố. Vì vậy áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao con chung tên Vũ Thanh P cho anh Vũ Văn C trực tiếp nuôi dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, chị Nguyễn Thị T trình bày để tự thỏa thuận và anh Vũ Văn C không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[4] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Văn C không có yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 147, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Xử:
1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Văn C.
2. Về nuôi con chung:
2.1. Giao con chung tên là Vũ Thanh P sinh ngày 23/02/2007 cho anh Vũ Văn C trực tiếp nuôi dưỡng. Việc trực tiếp nuôi con chung được thực hiện cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
2.2. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Văn C tự thỏa thuận giao nhận cho nhau.
3. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Văn C không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị Nguyễn Thị T đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng tại Biên lai số 0002312 ngày 07 tháng 10 năm 2020; Chị Nguyễn Thị T đã nộp đủ án phí.
5. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị T, anh Vũ Văn C không có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn là 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 234/2020/HNGĐ-ST ngày 08/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 234/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 08/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về