Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 85/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XM, TỈNH BÀ RỊA– VŨNG TÀU

BẢN ÁN 85/2023/HS-ST NGÀY 13/09/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 13 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 83/2023/HSST ngày 17 tháng 8 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 83/2023/QĐXXST - HS ngày 30 tháng 8 năm 2023, đối với bị cáo:

Nguyễn Mậu V, sinh năm: 1981 tại Hà Tĩnh;

HKTT: Tổ 6, ấp Bàu Ngứa, xã TL, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ văn hóa (học vấn): 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Mậu Q, sinh năm: 1959 và bà Nguyễn Thị M, sinh năm: 1957; Bị cáo có vợ tên Vũ Thị H, sinh năm 1981, có 03 con - con lớn nhất sinh năm 2003 và con nhỏ nhất sinh năm 2016;

Tiền sự: Không. Tiền án: Không.

Bị cáo được tại ngoại: Áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. “Bị cáo có mặt”.

Bị hại:

- Anh Sơn S, sinh năm 2003 “Có mặt”.

HKTT: Tổ 4, ấp 2, xã BR, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

1 Chỗ ở: Tổ 7, ấp Phú Tài, xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Bà Nguyễn Thị Diễm T, sinh năm: 1984 “Có mặt”.

HKTT: Tổ 4, ấp 2, xã BR, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Chỗ ở: Tổ 7, ấp Phú Tài, xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

- Ông Sơn S1, sinh năm: 1981 “Có mặt”.

HKTT: Tổ 4, ấp 2, xã BR, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Chỗ ở: Tổ 7, ấp Phú Tài, xã HH, huyện XM, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

- Công ty CP C.

Địa chỉ trụ sở chính: 267 Đ, phường V, quận C, thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Ngọc Đ – Tổng giám đốc. Người đại diện theo ủy quyền: ông Đỗ Văn T1, sinh năm: 1976 – Phó giám đốc N “Có mặt”.

Địa chỉ: Ấp B, xã B, huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 20 phút, ngày 19/11/2022, Nguyễn Mậu V là tài xế cho Công ty Cổ phần C địa chỉ phường V, quận C, TP . Hồ Chí Minh, điều khiển xe ô tô tải biển số 51D-439.xx, có giấy phép lái xe hạng C theo quy định, lưu thông trên đường liên xã H - T hướng từ T đi H. Khi đến đoạn đường thuộc tổ G, ấp P, xã H, huyện X, là khu vực có đoạn đường cong được trải nhựa bằng phẳng, giữa đường có một vạch sơn kẻ nét liền màu vàng phân chia phần đường xe chạy. V điều khiển xe lấn qua bên trái đường tông vào xe mô tô biển số 72G1-857.xx do anh Sơn S điều khiển (không có giấy phép lái xe theo quy định) lưu thông hướng ngược lại. Hậu quả, anh S bị thương nặng được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện C1, đến ngày 20/12/2022 thì xuất viện.

Hiện trường vụ tai nạn giao thông được Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện X chủ trì khám nghiệm lúc 09 giờ 00 phút ngày 19/11/2022 xác định: thời điểm vụ tai nạn giao thông xảy ra là ban ngày. Đoạn đường nơi xảy ra vụ tai nạn giao thông đường bộ là đoạn đường cong của đường liên xã H - T, thuộc ấp P, xã H, huyện X. Bề mặt đường được trải bê tông nhựa bằng phẳng bề rộng 6,2m, giữa đường có vạch sơn liền màu vàng phân chia phần đường xe chạy, mỗi phần đường đo được là 3,1m. Chiều đường từ xã T đi xã H có biển báo W210a, W207b và có đường nhánh rộng 3m.

Hiện trường và quá trình khám nghiệm được ghi nhận trong Biên bản khámnghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông của Công an huyện X, tỉnhBà Rịa –Vũng Tàu kèm theo. Số liệu đo, vẽ trong biên bản được tính theo mép đường bên phải hướng từ xã H đi xã T (hướng chuẩn). Lấy trụ điện có số 473XM/319/52/35/17 đóng bên lề đất bên phải hướng chuẩn làm cột mốc cố định.

- Vị trí số 1: Dấu vết cày là dấu vết cày lõm, không liên tục do xe mô tô biểnsố: 72G1-857.xx tạo nên. Vết cày in trên phần đường bên phải hướng chuẩn, đầuvết cày hướng về hướng đi xã T, đầu vết cày đo vào mép đường chuẩn là1,15m, chiều dài vết cày đo được là 5,2m.

- Vị trí số 2: Xe mô tô biển số: 72G1-857.xx lưu thông hướng từ xã H xã T, sau tai nạn xe đỗ nghiêng bên phải, nằm trên phần đường bên phảihướng chuẩn, đầu xe nằm bên dưới phía trước bánh sau bên trái xe ô tô tải biển số: 5ID-439.xx và hướng về mép đường bên trái, đuôi xe hướng vào mép đường chuẩn. Đo từ tâm trục bánh trước và bánh sau vào mép đường chuẩn lần lượt là 2,8m và 2,25m. Đo từ tâm trục bánh trước xe mô tô vào cột mốc cố định là 19m.

- Vị trí số 3: Xe ô tô tải biển số: 51D-439.xx lưu thông hướng từ xã T đi xã H, sau tai nạn xe nằm dọc theo chiều đi của đường, trên phần đường bên trái hướng chuẩn, đầu xe hướng về hướng đi xã H, đuôi xe hướng về hướng đi xã T.

Đo từ tâm trục bánh trước và bánh sau bên trái xe ô tô tải vào mép đường chuẩn lần lượt là 4,25m và 3m. Đo từ tâm trục bánh trước bên trái vào cột mốc cố định là 16,5m.

- Vị trí (M): Vết máu của nạn nhân sau khi va chạm, không có hình dạng nhất định, in trên mặt đường bên phần đường bên phải hướng chuẩn kích thước 1,6m x 1,3m. T2 vết máu đo vào mép đường chuẩn là 1,5m, đo đến tâm trục bánh sau xe mô tô biển số: 72G1-857.xx là 1,3m.

- Vị trí (A): Là điểm va chạm giữa xe mô tô biển số: 72G1-857.xx và xe ô tôtải biển số: 51D-439.xx tương ứng trên mặt đường, nằm trên phần đường bên phảihướng chuẩn. Đo từ điểm va chạm đến mép đường chuẩn là 1,2m, đo đến cột mốccố định là 24,5m, đo đến vị trí số 1 vết cày là 0,9m, đo đến tâm trục bánh sau bêntrái xe ô tô tải là 5,1m, đo đến đường nhánh 3m là 48m.

Biên bản khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện X lập ngày 23/11/2022 xác định: Trên xe ô tô tải biển số: 51D-439.xx sau tai nạn:

+ Phần đầu xe: Mặt ngoài cửa lên xuống bên trái có vết cà xước mòn kimloại, tróc sơn dài 9cm hướng từ trước ra sau.

+ Phần thân xe: Tấm chắn bùn trên bánh trước bên trái có vết chà sót sạch bụi bẩn hướng từ trước ra sau dài 20cm; Tấm chắn bùn sau bánh trước có vết chà sót mòn nhựa, sạch bụi bẩn dài 17cm hướng từ trước ra sau; mặt ngoài thanh kim loại bên trái phía trước thùng xe có dính nhiều dấu vết nghi là máu, tóc, thịt của nạn nhân; thanh kim loại chắn gầm xe phía dưới bên trái thùng xe bung hở tại vị trí ốc gắn; thanh kim loại chắn gần xe bên trái có vết cà xước sạch bùn đất; bên dưới thùng nhiên liệu có vết chà sót sạch bụi bẩn dài 18cm; đầu thanh kim loại giá đỡ thùng nhiên liệu có dấu vết chà sót sạch bụi bẩn; tấm chắn bùn bánh sau bên trái mặt trước có vết cà xước sạch bụi bẩn.

Phương tiện đảm bảo an toàn kỹ thuật trước khi xảy ra tai nạn.

- Trên xe mô tô biển số: 72G1-857.xx sau tai nạn:

+ Phần đầu xe: Ốp nhựa đầu thanh lái phía trước có dấu vết cà mòn kíchthước 0,2cm x 5cm; cụm công tắc bên trái đầu thanh lái và công tắc bên phải bể nứt kích thước 5cm x 6cm; kính chiếu hậu bên trái bị bể vỡ; ốp nhựa mặt nạ phíatrước đầu xe bị bể vỡ hoàn toàn, bung khỏi vị trí ban đầu.

+ Phần thân xe: Cung chắn bùn phía trước bị bể vỡ; yếm chắn gió bên phải có vết cà xước nhựa kích thước 4cm x 20cm; cần đạp phanh bên phải bị cong gậpbiến dạng; ốp nhựa thân xe bên trái bị cà mòn kích thước 3cm; yếm chắn gió bêntrái bị bể vỡ, bung hở kích thước 20cm x 30cm.

+ Phần đuôi xe: Ốp nhựa trên bộ phận giảm thanh (pô xe) bị cà xước kíchthước 10cm.

+ Nón bảo hiểm của nạn nhân màu trắng, hồng bể nứt nhựa phía trước bêntrái.

Phương tiện đảm bảo an toàn kỹ thuật trước khi xảy ra va chạm.

Tại bản kết luận giám định số: 13/TgT, ngày 18/01/2023 của Trung tâm giám định pháp y Sở Y kết luận:

- Dấu hiệu chính qua giám định:

+01 sẹo trung bình (vùng đầu-mặt);

+ 01 sẹo nhỏ vùng mặt (vùng môi trên);

+ 03 sẹo trung bình;

+ 03 sẹo nhỏ;

+ Khuyết xương sọ kích thước 06cm x 03cm, đáy phập phồng;

+ Ổ tổn thương não 04cm x 03cm;

+ Máu tụ dưới màng cứng trán phải, bề dày 06mm (máu mạn tính);

+ Gãy xương hàm trên, can tốt, không ảnh hưởng chức năng;

+ Vỡ thành xoang hàm không di lệch;

+ Vỡ thành xoang trán;

+ Vỡ bờ hốc mắt;

+ Gãy thân xương chày trái, còn dụng cụ kết hợp xương.

- Căn cứ Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y1, Q1 tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám địnhpháp y tâm thần: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra hiện tại là: 78%.

Tại bản Kết luận giám định bổ sung tổn thương cơ thể qua hồ sơ số 101/KLTTCT-PYBRVT ngày 28/3/2023 của Trung tâm giám định pháp y kếtluận:

- Các kết quả chính:

+ Kết quả nghiên cứu qua hồ sơ: Đa chấn thương.

- Về xác định vật gây thương tích và chiều hướng lực tác động: Các thươngtích của nạn nhân được gây ra do sự tác động tương hỗ của vật rắn tầy, tác độngvới lực mạnh vào cơ thể nạn nhân theo chiều hướng từ trước ra sau.

Vật chứng thu giữ và xử lý:

+ Sau khi tạm giữ xe ô tô tải biển số 51D-439.xx, nhãn hiệu HINO, số loại:FG8JPSB, số máy J08EUG17075, số khung RNJFG8JPSHXX18723; một giấychứng nhận đăng ký xe số: 50022463 tên chủ xe: Công ty CP C, 01 giấy chứng nhận kiểm định số: EA 0978042, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc số: 21BB210794514, Cơ quan điều tra đã xử lý trả lại cho đại diện công ty CP C, ông Đỗ Văn T1.

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha exciter, biển số: 72G1-857.xx, số máy:G3M5E183724, số khung: RLCUG1210NY092163; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe số: 72 0000B5, qua xác minh xe mô tô trên do bà Nguyễn Thị Diễm T (mẹ ruột anh Sơn S) đứng tên chủ sở hữu, bà T không biết S lấy xe mô tô điều khiển đi và xảy ra tai nạn nên Cơ quan điều tra sau khi thu giữ đã xử lý trả lại cho bà T.

+01 giấy phép lái xe số 7901662073xx mang tên Nguyễn Mậu V hiện đangtạm giữ chờ chuyển Chi cục Thi ành án dân sự huyện X để xử lý khi xétxử.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi sự việc xảy ra, Nguyễn Mậu V đã tựnguyện bồi thường dân sự cho bị hại anh Sơn S là 211.000.000 đồng, bị hại không có yêu cầu gì thêm.

Tại phiên toà, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng truy tố.

Tại phiên tòa, bị hại anh Sơn S, xác nhận đã nhận số tiền bị cáo đã bồi thường là 211.000.000 đồng và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm về trách nhiệm hình sự, anh S đề nghị Hội đồng xét xử, xét xử theo quy định của pháp luật.

Bản cáo trạng số 77/CT - VKS ngày 11/8/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện XM truy tố bị cáo Nguyễn Mậu V về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm b khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự 2015.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 38; điểm b điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo từ 12 (Mười hai) tháng đến 16 (Mười sáu) tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng đối với:

- 01 giấy phép lái xe số 7901662073xx mang tên Nguyễn Mậu V đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Đã xử lý xong nên không xem xét.

Bị cáo Nguyễn Mậu V nói lời sau cùng: Bản thân bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đã thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, hậu quả xảy ra cho gia đình bị hại là ngoài ý muốn, bị cáo là lao động chính trong gia đình nên xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định truy tố: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra huyện X, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện XM, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa đối chiếu với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và những người tham gia tố tụng khác cũng như những tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ là phù hợp. Theo đó xác định được rằng:

Khoảng 07 giờ 20 phút, ngày 19/11/2022, bị cáo Nguyễn Mậu V điều khiển xe ô tô tải biển số 51 D – 439.xx có giấy phép lái xe hạng C theo quy định lưu thông trên đường liên xã H - T hướng từ T đi xã H. Khi đến khu vực tổ G, ấp P, xã H là khu vực có đọan đường cong. Bị cáo điều khiển xe đi không đúng phần đường, làn đường quy định, lấn sang bên trái đường tông vào xe mô tô biển số 72 G1- 857.xx do anh Sơn S điều khiển (không có giấy phép lái xe theo quy định) lưu thông theo chiều ngược lại (điểm va chạm nằm trên phần đường xe mô tô, cách mép đường 1,2m, theo hướng xã H đi T).

Hậu quả của vụ tai nạn: Làm anh Sơn S bị thương nặng điều trị tại bệnh viện C1, thành phố Hồ Chí Minh, qua kết quả giám định, anh S bị tổn thương cơ thể do thương tật gây ra là 78%.

Tại bản kết luận giám định số: 13/TgT, ngày 18/01/2023 của Trung tâm giám định pháp y Sở Y kết luận:

- Dấu hiệu chính qua giám định:

+01 sẹo trung bình (vùng đầu-mặt);

+ 01 sẹo nhỏ vùng mặt (vùng môi trên);

+ 03 sẹo trung bình;

+ 03 sẹo nhỏ;

+ Khuyết xương sọ kích thước 06cm x 03cm, đáy phập phồng;

+ Ổ tổn thương não 04cm x 03cm;

+ Máu tụ dưới màng cứng trán phải, bề dày 06mm (máu mạn tính);

+ Gãy xương hàm trên, can tốt, không ảnh hưởng chức năng;

+ Vỡ thành xoang hàm không di lệch;

+ Vỡ thành xoang trán;

+ Vỡ bờ hốc mắt;

+ Gãy thân xương chày trái, còn dụng cụ kết hợp xương.

- Căn cứ Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y1, Q1 tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám địnhpháp y tâm thần: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra hiện tại là: 78%.

Tại bản Kết luận giám định bổ sung tổn thương cơ thể qua hồ sơ số 101/KLTTCT-PYBRVT ngày 28/3/2023 của Trung tâm giám định pháp y kếtluận:

- Các kết quả chính:

+ Kết quả nghiên cứu qua hồ sơ: Đa chấn thương.

- Về xác định vật gây thương tích và chiều hướng lực tác động: Các thươngtích của nạn nhân được gây ra do sự tác động tương hỗ của vật rắn tầy, tác độngvới lực mạnh vào cơ thể nạn nhân theo chiều hướng từ trước ra sau.

Như vậy, hành vi của bị cáo nêu trên có đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Từ đó, cho thấy bản cáo trạng số 77/CT - VKS ngày 11 tháng 8 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện XM truy tố bị cáo Nguyễn Mậu V về tội danh và điều khoản nêu trên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo không chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của Luật giao thông đường bộ khi tham gia giao thông, điều khiển xe đi không đúng phần đường, làn đường quy định, lấn sang bên trái đường hậu quả gây thương tích 78% cho bị hại, lỗi chính thuộc về bị cáo. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự an toàn công cộng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người khác, để lại hậu quả, di chứng nặng nề cho bị hại. Do đó, cần xử phạt bị cáo với mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, trong quá trình điều tra bị cáo đã khắc phục bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại. Do vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[6] Trong vụ án này, có một phần lỗi của bị hại là điều khiển xe mô tô khi không có giấy phép lái xe theo quy định, khi điều khiển phương tiện giao thông nên vi phạm vào khoản 9 Điều 8 của Luật giao thông đường bộ. Mặc dù, đây không phải là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại về sức khỏe cho bị hại nhưng cũng cần xem xét các yếu tố này khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[7] Sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo Nguyễn Mậu V bản thân chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu; có nhân thân tốt. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, hậu quả xảy ra là do lỗi vô ý; bị cáo có nơi cư trú ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử, xét thấy cần tạo cho bị cáo một cơ hội để sửa chữa sai lầm, không cần thiết phải chấp hành hình phạt tù. Việc cho bị cáo được hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an toàn xã hội; và phù hợp với Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Nên căn cứ Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, cho bị cáo được hưởng án treo, giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú để giám sát giáo dục cũng đủ tác dụng răn đe đối với bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

[8] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có nghề nghiệp chính là lái xe, xét tính chất mức độ phạm tội của bị cáo, không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo.

[9] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại anh Sơn S đã nhận số tiền bồi thường 211.000.000đ từ bị cáo và không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Về xử lý vật chứng:

- Sau khi tạm giữ xe ô tô tải biển số 51D - 439.xx, nhãn hiệu HINO, số loại:FG8JPSB, số máy J08EUG17075, số khung RNJFG8JPSHXX18723; một giấychứng nhận đăng ký xe số: 50022463 tên chủ xe: Công ty CP C, 01 giấy chứng nhận kiểm định số: EA 0978042, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc số: 21BB210794514, Cơ quan điều tra đã xử lý trả lại cho đại diện công ty CP C, ông Đỗ Văn T1 là đúng quy định của pháp luật.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha exciter, biển số: 72G1 - 857.xx, số máy:G3M5E183724, số khung: RLCUG1210NY092163; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe số: 72 0000B5, qua xác minh xe mô tô trên do bà Nguyễn Thị Diễm T (mẹ ruột anh Sơn S) đứng tên chủ sở hữu, bà T không biết S lấy xe mô tô điều khiển đi và xảy ra tai nạn nên Cơ quan điều tra sau khi thu giữ đã xử lý trả lại cho bà T, là đúng quy định của pháp luật.

- Đối với 01 giấy phép lái xe số 7901662073xx mang tên Nguyễn Mậu V, xét thấy không áp dụng hình phạt bổ sung cấm hành nghề lái xe đối với bị cáo nên trả lại cho bị cáo.

[11] Các vấn đề khác: Đối với bà Nguyễn Thị Diễm T (mẹ của bị hại anh Sơn S) không giao xe cho anh S và không biết anh S lấy xe mô tô làm phương tiện đi lại, sau đó xảy ra tai nạn nên không xem xét xử lý đối với bà T là đúng quy định của pháp luật.

[12] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm b khoản 1 Điều 260; điểm b điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Mậu V phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

2. Xử phạt bị cáo: Nguyễn Mậu V 18 (Mười tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 (Ba mươi sáu) tháng. Tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (13/9/2023).

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án Hình sự 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Trả lại cho bị cáo: 01 giấy phép lái xe số 7901662073xx mang tên Nguyễn Mậu V.

(Toàn bộ vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện XM đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/8/2023 giữa Công an huyện X và Chi cục Thi hành án dân sự huyện XM).

4. Về án phí:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Mậu V phải nộp số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm;

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 85/2023/HS-ST

Số hiệu:85/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về