Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 40/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 40/2022/HS-ST NGÀY 15/09/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 15 tháng 9 năm 2022, tại Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 40/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2022/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2022 đối với:

- Bị cáo: Lê Công B, sinh ngày 06/8/1990, tại thành phố C, tỉnh Quảng Ninh. Nơi cư trú: thôn 2, xã N, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Cao N và bà Ngô Thị H; vợ là Lê Thị Hồng N và 01 con; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo hiện tại ngoại tại nơi cư trú, có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị hại: chị Đinh Thị Út V, sinh năm 2000.

Địa chỉ: thôn T, xã M, huyện H, tỉnh Quảng Ninh, có mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Phạm Văn N, vắng mặt.

+ Ông Phạm Văn T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 08/5/2022, Lê Công B (có giấy phép lái xe hợp lệ) điều khiển xe ô tô BKS 14A - V chở ông Phạm Văn T và anh Phạm Văn N ở thôn 2, xã N, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh hướng thành phố C đi huyện Đ. Khi đến Km 253 + 900 Quốc lộ 18 thuộc thôn T, xã M, huyện H, do không chú ý quan sát, không giữ tốc độ và khoảng cách an toàn theo quy định, đã đâm vào phía sau xe mô tô BKS 14L1 - V do bà Vũ Thị H - sinh năm 1960, trú tại: thôn 2, xã C, huyện H, tỉnh Quảng Ninh, điều khiển đi phía trước cùng chiều, gây tai nạn. Hậu quả: bà Vũ Thị H bị thương được đi cấp cứu, đến ngày 11/5/2022 bị tử vong, xe ô tô và xe mô tô liên quan đến vụ tai nạn bị hư hỏng nhẹ. Vụ tai nạn giao thông được Phòng Cảnh sát giao thông đường bộ - Công an tỉnh Quảng Ninh thụ lý giải quyết ban đầu, đến ngày 11/5/2022 chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H thụ lý giải quyết.

Biên bản dựng lại hiện trường do Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện H, lập ngày 12/5/2022 thể hiện: đoạn đường xảy ra tại nạn là đường dải nhựa, mặt đường bằng phẳng rộng 11,5m. Đường hai chiều giữa đường có kẻ vạch sơn đứt đoạn màu vàng phân chia hai phần đường, phần đường bên phải rộng 5,75m đường thẳng, tầm nhìn không bị che khuất. Hiện trường không còn nguyên vẹn (việc mô tả hiện trường hướng thành phố C đi huyện Đ): Các dấu vết nằm hoàn toàn tại phần đường bên phải: 01 vết cày xước mặt đường đứt đoạn, có hướng thành phố C đi huyện Đ, đầu vết cách mép đường bên phải 3,5m; đuôi vết trùng với giá để chân trước bên phải xe mô tô BKS 14L1 - V, cách mép đường bên phải 3,8m. (Bút lục số 105).

Kết quả khám nghiệm các phương tiện liên quan đến vụ tai nạn thể hiện: xe ô tô BKS 14A - V: ba đờ sốc trước bị móp méo, cong vênh, đẩy dồn từ trước về sau; biển kiểm soát gắn ở đầu xe bị móp méo, rách vỡ, đẩy dồn từ trước về sau; mặt ca lăng phía trước bị rách vỡ, hướng từ tước về sau; cụm đèn chiếu sáng, xi nhan trước bên trái bị vỡ; nắp ca pô bị móp méo, cong vênh hướng từ trước về sau, có dính chất màu đỏ. Xe mô tô BKS 14L1 - V: đèn xi nhan phía trước bên phải bị vỡ hoàn toàn; tay phanh bên phải bị cong vênh, mài xước kim loại; giá để chân trước bên phải mài xước, rách cao su hở lõi kim loại hướng từ trước về sau; đèn hậu, xi nhan phía sau vỡ hoàn toàn rời khỏi xe; chắn bùn phải sau và BKS bị gãy rời khỏi xe (Bút lục số 108, 110).

Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 140 ngày 11/5/2022, của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Quảng Ninh, kết luận: nguyên chết của bà Vũ Thị H, do chấn thương sọ não tụ máu dưới màng cứng, chảy máu khoang dưới nhện, dập não, phù não, chèn ép não, chết não, chấn thương ngực kín và gãy 1/3 dưới xương quay phải (Bút lục số 84).

Các vật chứng gồm: 01 xe ô tô nhãn hiệu TOYOTA – VIOS, BKS 14A- V, 01 Chứng nhận đăng ký xe ô tô số 049806, 01 Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ số KD 4536569, 01 Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự số 2200067671 đều cấp cho xe ô tô BKS 14A-V; 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA-WAVE, BKS 14L1-V, 01 Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 008122 do Công an huyện H cấp ngày 15/11/2017 đều đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp, những người này không có yêu cầu, đề nghị gì thêm.

Về trách nhiệm dân sự: quá trình điều tra bị cáo Lê Công B đã thanh toán toàn bộ tiền điều trị thương tích và tiền mai táng cho bị hại với số tiền 52.000.000đ (năm mươi hai triệu đồng), bồi thường cho gia đình bị hại với số tiền 120.000.000đ (một trăm hai mươi triệu đồng). Tại phiên tòa, người đại diện của bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lê Công B đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Bị cáo nhận thức được việc bị cáo không tuân thủ quy định về tốc độ và khoảng cách an toàn gây tai nạn làm bà Vũ Thị H tử vong là vi phạm pháp luật. Nói lời sau cùng, bị cáo ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

Người làm chứng là anh Phạm Văn N và ông Phạm Văn T đã được Tòa án triệu tập nhưng đều vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên quá trình điều tra đã có lời khai khẳng định: vào khoảng 13 giờ 50 phút, ngày 08/5/2022, tại Km 253+900 Quốc lộ 18 thuộc thôn T, xã M, huyện H, Lê Công B do không làm chủ tốc độ và khoảng cách an toàn đã điều khiển xe ô tô BKS 14A-V đâm vào đuôi xe mô tô BKS 14L1-V do bà Vũ Thị H điều khiển khiến bà Hoan bị ngã và rê trượt về phía trước. Sau đó bị cáo B đã xuống kiểm tra, xem xét tình trạng của bà Hoan rồi gọi taxi đưa bà Hoan đến Trung tâm y tế huyện H cấp cứu, điều trị.

Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 41/CT-VKSHH ngày 10/08/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện H đã truy tố bị cáo Lê Công B về tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Công B từ 12 tháng đến 15 tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 24 tháng đến 30 tháng, kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho UBND xã N, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh giám sát, giáo dục bị cáo. Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: bị cáo đã thỏa thuận bồi thường xong cho gia đình bị hại, nên không đề cập. Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS, trả lại bị cáo 01 Giấy phép lái xe số No: 220136012870 mang tên Lê Công B. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội:

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung đã khai nhận tại cơ quan điều tra, phù hợp với Sơ đồ hiện trường vụ tai nạn giao thông, Biên bản khám nghiệm hiện trường, Bản ảnh hiện trường, Biên bản khám phương tiện liên quan đến tai nạn, Kết luận giám định pháp y về tử thi và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo khẳng định: những lời khai tại cơ quan điều tra là tự nguyện, đúng sự thật, không bị ép cung, mớm cung hoặc nhục hình; kết hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được làm rõ tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy đủ căn cứ để kết luận bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như sau: khoảng 14 giờ ngày 08/5/2022, tại đường Quốc lộ 18, thuộc thôn T, xã M, huyện H, Lê Công B điều khiển xe ô tô BKS 14A - V, do không giữ tốc độ và khoảng cách an toàn theo quy định nên đã đâm vào phía sau xe mô tô BKS 14L1 - V do bà Vũ Thị H điều khiển đi phía trước cùng chiều gây tai nạn, hậu quả làm bà Vũ Thị H bị tử vong.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông, là đối tượng được luật hình sự bảo vệ. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được khi điều khiển xe mô tô tham gia giao thông phải tuyệt đối tuân thủ các quy tắc giao thông đường bộ, tuân thủ quy định về tốc độ và giữ khoảng cách an toàn với xe chạy liền trước. Hành vi của bị cáo đã vi phạm vào khoản 1 Điều 12 Luật giao thông đường bộ, gây ra hậu quả làm bà Vũ Thị H bị tử vong.

Hành vi của bị cáo Lê Công B đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” thuộc trường hợp: “a. Làm chết người;”, quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện H đã truy tố là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Xét nhân thân bị cáo, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tiền án, tiền sự, tình tiết tăng nặng: không có. Tình tiết giảm nhẹ: quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại; người đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt đối với bị cáo:

Hội đồng xét xử thấy rằng, mặc dù hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nhưng bị cáo phạm tội lần đầu, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giám sát, giáo dục; có khả năng tự cải tạo nên việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Do đó, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo, kèm theo thời gian thử thách là phù hợp với quy định tại các khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự và Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao. Đối với Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú và Quyết định tạm hoãn xuất cảnh đang áp dụng đối với bị cáo cần hủy bỏ.

Do bị cáo không có việc làm ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là cấm hành nghề đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị hại đã thỏa thuận bồi thường xong. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết về trách nhiệm dân sự.

[6] Về xử lý vật chứng: quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã xác minh làm rõ nguồn gốc và chủ sở hữu, đã trả lại tài sản cho các chủ sở hữu hợp pháp nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Do không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo nên trả lại bị cáo Lê Công B 01 Giấy phép lái xe số No: 220136012870 mang tên Lê Công B theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Công B phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

1. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Lê Công B 12 (mười hai) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 (hai mươi bốn) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 15/9/2022).

Giao bị cáo Lê Công B cho Ủy ban nhân dân xã N, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo B có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo Lê Công B cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Hủy Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 27 ngày 17/8/2022 và Quyết định tạm hoãn xuất cảnh số 27 ngày 17/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện H đối với bị cáo Lê Công B.

2. Về xử lý vật chứng: áp dụng khoản 1, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: trả lại bị cáo Lê Công B 01 Giấy phép lái xe số No: 220136012870 mang tên Lê Công B (hiện đang lưu giữ trong hồ sơ vụ án - đã trả lại cho bị cáo sau khi kết thúc phiên tòa).

3. Về án phí: áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án: bị cáo Lê Công B phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: áp dụng khoản 1 Điều 331 và khoản 1, 3 Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự: bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 15/9/2022). 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 40/2022/HS-ST

Số hiệu:40/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hải Hà - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về