Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 40/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 40/2022/HS-ST NGÀY 11/07/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 11 tháng 7 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T. xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 31/2022/TLST-HS ngày 31 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2022/QĐXXST- HS ngày 07 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

TRẦN LONG Đ., sinh năm: 1982; HKTT và chỗ ở: Xóm 5 đội 8 xã T., huyện T., thành phố H.; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Văn hóa:12/12; Nghề nghiệp: Lái máy xúc; Con ông: Trần Đức T.; con bà: Nguyễn Thị T.; Vợ: Nguyễn Thị P. và có 02 con (lớn sinh năm 2012 nhỏ sinh năm 2014); Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/4/2022 đến ngày 15/4/2022 (có mặt)

* Bị hại: Anh Nguyễn Văn D., sinh năm 1985 (đã chết).

* Đại diện hợp pháp cho bị hại: Ông Nguyễn Văn E, sinh năm 1957 Trú tại: Đội 4 xã T., huyện T., TP H. (vắng mặt)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1 Ông Lã Đức T., sinh năm 1972; Trú tại: Thôn 3, xã V., huyện T., Tp H. (có đơn xin xét xử vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 12/4/2022, Trần Long Đ. điều khiển xe máy xúc BKS: 20LA - 0835 đi với vận tốc khoảng 10 - 12 km/h từ công trình ở đội 4, xã Tự Nhiên, huyện T., TP. H. để về nhà ở đội 8, xã T.. Đến khu vực quán sửa xe máy Th. thuộc đội 4, xã T. thì T. quan sát cách khoảng 10m phía trước có chiếc xe mô tô BKS: 29Y5 - 120.47 đang dừng đỗ bên mép phải lề đường và anh Nguyễn Văn D. đang ngồi cạnh chiếc xe mô tô ở phía bên trái sửa chân chống xe. Sau đó Đ. điều khiển xe máy xúc hơi đánh lái sang trái và cho xe đi thẳng đi cách xe mô tô khoảng 50cm. Do chủ quan Đ. nghĩ khoảng cách giữa xe máy xúc với vị trí anh D. đang ngồi đủ để xe máy xúc đi qua an toàn, Đ. tiếp tục điều khiển xe máy xúc đi thẳng và không quan sát anh D. nên phần bánh trước bên phải máy xúc đã đè qua người anh D. Lúc này, Đ. nghe thấy tiếng “bụp” và bánh xe bị kênh, đã đạp phanh cho xe máy xúc dừng lại. Đức xuống xe phát hiện thấy anh Dũng nằm nghiêng bên trái trong gầm xe máy xúc giữa hai hàng bánh lốp trước và sau bên phải đã tử vong còn chiếc xe mô tô BKS 29Y5 - 120.47 vẫn đỗ nguyên vị trí mép bên phải lề đường. Hậu quả: anh Nguyễn Văn D. tử vong tại chỗ.

Sau khi tai nạn xảy ra, Trần Long Đ. đến Công an huyện T. đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Thu giữ tang vật gồm: 01 xe mô tô Honda Dream màu nâu BKS: 29Y5 - 120.47 xe đã qua sử dụng; 01 máy xúc nhãn hiệu: Doosan Dx55w màu đỏ BKS 20LA-0835; 01 đăng ký xe máy xúc BKS 20LA – 0835; 01 bằng nghề số 000399049 mang tên Trần Long Đức.

Kết quả khám nghiệm hiện trường vụ án:

Hiện trường còn nguyên vẹn, hiện trường nơi xảy ra tai nạn mặt đường được trải nhựa nhẵn, phẳng, thẳng có chiều rộng 4m13, tiếp giáp bên phải mép đường hướng Đội 5 - Đội 3 là lề đường được trải bằng bê tông rộng 1m63; tiếp giáp mép đường bên phải hướng Đội 3 - Đội 5 là lề đường được trải bằng bê tông rộng: 1m80.

2 Tại nơi xảy ra tai nạn bên phải mép đường hướng Đội 5 - Đội 3 là nhà T., rộng 4m53, chọn điểm mốc là tâm mép nhà T.; chọn mép đường bên phải hướng Đội 5 - Đội 3 làm mép chuẩn.

+ Vết số (1) là vị trí vết mài trượt có diện (34x20)cm, chiều hướng vết từ Nam đến Bắc, đo từ tâm đầu vết (1) vào mép đường là 1m10, đo từ tâm cuối vết (1) vào mép đường là 1m10.

+ Vết số (2) là vị trí máy xúc BKS:20LA-0835 sau tai nạn đỗ ở trên đường, đầu xe quay hướng Bắc, đuôi xe quay hướng Nam, đo từ hình chiếu tâm đầu trục bánh trước phải vào mép đường là 1m12; đo từ hình chiếu tâm đầu trục bánh sau phải vào mép đường là 1m07, đến tâm đầu vết số (1) là 1m70.

+ Vết số (3) là vị trí xe mô tô Dream BKS: 29Y5-12047 sau tai nạn dựng chân chống phụ trên lề đường bên phải hướng Đội 5 - Đội 3, đầu xe quay hướng Bắc, đuôi xe quay hướng Nam. Đo từ hình chiếu tâm đầu trục bánh trước ra mép đường là 20cm; đo từ hình chiếu tâm đầu trục bánh sau ra mép đường là 05cm, đến tâm đầu trục bánh sau phải máy xúc số (2) là 1m05.

+ Vết số (4) là vị trí nạn nhân sau tai nạn, tư thế nằm nghiêng trái, mặt hướng về phía Đông, đầu quay về hướng Bắc, chân quay về hướng Nam. Đo từ tâm đầu (4) vào mép đường là 1m17, đến tâm đầu trục bánh trước phải máy xúc (số 2) là 0m70; Đo từ đầu bàn chân phải nạn nhân vào mép đường là 1m.

Mốc: Đo từ tâm điểm mốc đến tâm đầu vết số (1) là 1m46.

Tại mặt ngoài bên phải quần vải màu đen và áo khoác màu đen (trang phục mặc ngoài của nạn nhân) có các vết bám đất bẩn nằm ngang liên tiếp (dạng vân lốp) theo chiều từ dưới lên trên (quay tiến bánh xe) trong diện (25x86) cm.

Kết quả khám nghiệm dấu vết trên các phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông * Kết quả khám dấu vết trên xe máy xúc nhãn hiệu: Doosan Dx55w màu sơn đỏ BKS: 20LA - 0835:

Xe có trọng lượng 5550 kg, kích thước (6,12x1,92x2,85) m Mặt lăn thuộc bánh lốp trước bên phải có chiều rộng trung bình 30 cm, độ rộng của hoa lốp thuộc mặt lăn này có độ rộng trung bình là 4 cm, dài 10 cm trải đều về hai bên của mặt lăn. Ngoài ra không phát hiện dấu vết gì.

3 * Kết quả khám dấu vết trên xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream BKS 29Y5 - 120.47:

Là loại xe hai bánh, kích thước xe dài 2m07, rộng 68 cm, cao không gương 1m07, xe có lắp thêm khung giá đèo hàng phía sau kích thước (90x67x50) cm, phần khung kim loại thấp nhất cách đất 29 cm.

Dây thừng nối giữa khung kim loại bàn để chân người điều khiển bên trái, phần đầu phía bàn để chân người điều khiển phát hiện có 01 quận băng dính màu đen trong tình trạng đang cuốn bám dính vào dây thừng. Ngoài ra không phát hiện dấu vết nào khác.

* Kết quả khám dấu vết nạn nhân Nguyễn Văn D.:

Ngày 12/4/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện T. đã ra quyết định trưng cầu số 83 trưng cầu Trung tâm pháp y H. giám định pháp y tử thi xác định nguyên nhân tử vong của anh Nguyễn Văn D. Tuy nhiên, gia đình nạn nhân Nguyễn Văn D. xác định nguyên nhân tử vong của anh D. là do tai nạn giao thông mà không phải vì bất kỳ nguyên nhân nào khác và có đơn từ chối pháp y tử thi.

Tại bản Kết luận giám định pháp y tử thi số: 469/GĐTT-TTPY ngày 29/4/2022 của Trung tâm pháp y H. kết luận:

- Đầu, mặt: Rách da vùng góc đỉnh trán phải kích thước (5x3)cm. Qua vết rách da này kiểm tra thấy vỡ xương trán. Rách da vùng góc đỉnh trán trái kích thước (6x5)cm. Qua vết rách da này kiểm tra thấy vỡ xương trán. Biến dạng vùng đầu. Hai lỗ tai, hai lỗ mũi, miệng có máu. Gãy xương hàm dưới và hàm trên. Không mất răng.

- Cổ vững.

- Ngực: Bầm tím da rải rác vùng ngực kích thước (29x13)cm. Ấn ngực kiểm tra thấy mất vững. Tay phải không sây sát, sưng nề, bầm tím da, sờ nắn không thấy gãy xương.

- Tay trái: Bầm tím da rải rác mặt trước cánh tay kích thước (26x15)cm, sờ nắn không thấy gãy xương.

- Khung chậu vững.

- Đầu dương vật có 01 dị vật hình khối kích thước (1.5x0.8) cm

- Vùng nếp làn bẹp phải rải rác vết loét da kích thước (5x3)cm (dấu vết dạng vết mà).

- Vùng nếp làn bẹp trái có 01 vết chai sần kích thước (0,7x0.5)cm (dấu vết dạng vết mà).

- Chân phải: Vùng chân phải có nhiều vết loét da cũ rải rác khắp chân phải. Bầm tím da rải rác vùng đùi kích thước (13x9)cm. Sờ nắn không thấy gãy xương.

- Chân trái : Vùng chân trái có nhiều vết loét da cũ rải rác khắp chân trái. Sờ nắn không thấy gãy xương.

- Ngoài các dấu vết đã mô tả không phát hiện thương tích nào khác.

- Mẫu máu của nạn nhân Nguyễn Văn D. giám định không có Ethanol.

- Mẫu máu của nạn nhân Nguyễn Văn D. giám định: Dương tính với Morphine. Do không mổ tử thi nên không xác định được nguyên nhân chết.

Về trách nhiệm dân sự: Các bên đã tự nguyện thỏa thuận xong phần bồi thường. Người đại diện hợp pháp của anh Nguyễn Văn D. đã nhận đủ tiền bồi thường và không có yêu cầu bồi thường thêm, đồng thời có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Tại bản cáo trạng số 32/CT-VKS ngày 31/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T. truy tố Trần Long Đ. về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng truy tố và xin giảm nhẹ hình phạt.

Sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đánh giá nhân thân, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T. giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham giao thông đường bộ”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt Trần Long Đ. từ 15 - 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 - 36 tháng.

Về trách nhiệm dân sự: Đại diện gia đình bị hại đã nhận tiền bồi thường, không yêu cầu thêm gì khác, nên không đề nghị xét.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS đề nghị HĐXX trả lại bị cáo 01 bằng nghề số 000399049 mang tên Trần Long Đức do trường đào tạo nghề kỹ thuật vận tải thủy, cấp ngày 14/5/2004.

5 Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội do mình gây nên: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm dấu vết xe, phù hợp lời khai của người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ với các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để xác định: Khoảng 16 giờ ngày 12/4/2022, Trần Long Đức (có bằng nghề vận hành máy xúc) điều khiển xe máy xúc nhãn hiệu Doosan Dx55W màu đỏ, BKS 20LA – 0835 đi từ công trình ở đội 4 xã T. để về nhà tại đội 8 xã T., huyện T., TP H. với tốc độ khoảng 10 – 12km/h, khi xe đi đến khu vực quán sửa xe máy T. thuộc đội 4 xã T., do chủ quan, thiếu chú ý quan sát, không giữ khoảng cách an toàn đã để phần bánh trước xe máy xúc đè qua người anh Nguyễn Văn D. (khi đó đang ngồi bên trái cạnh xe mô tô BKS 29Y5 -120.47 đỗ ở mép phải lề đường để sửa chữa chân chống xe máy). Hậu quả: anh Nguyễn Văn D. tử vong. Bị cáo đã vi phạm khoản 23 Điều 8 Luật giao thông đường bộ, gây hậu quả nghiêm trọng nên đủ cơ sở xét xử bị cáo Trần Long Đ. phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Thường Tín truy tố bị cáo với tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ pháp luật.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây mất trật tự an toàn giao thông đường bộ, thiệt hại đến tính mạng của người khác, để lại tổn thất tinh thần cho thân 6 nhân người bị hại, gây nên nỗi lo về nguy cơ mất an toàn cho những người tham gia giao thông hiện nay. Vì vậy cần áp dụng cho bị cáo một hình phạt nghiêm khắc tương xứng với mức độ, hành vi phạm tội do bị cáo gây ra nhằm mục đích cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội. Thời điểm xảy ra sự việc anh Nguyễn Văn D. dựng xe mô tô BKS 29Y5 – 12077 ở lề đường, sau đó ngồi trong lòng đường để sửa chân chống xe, như vậy đã có một phần gây cản trở, làm mất an toàn cho người tham gia giao thông, là một phần nguyên nhân dẫn đến hậu quả của vụ tai nạn. Quá trình điều tra gia đình nạn nhân cũng nhận thức rằng tai nạn xảy ra do lỗi vô ý và hậu quả không mong muốn nên đã có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Tại phiên tòa, bị cáo nhận thức thức rõ hành vi trái pháp luật của mình, tích cực khắc phục hậu quả cho gia đình nạn nhân, bản thân bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo để có cơ hội cải tạo tại địa phương cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu, tích cực bồi thường khắc phục hậu quả cho gia đình người bị hại; Gia đình nạn nhân có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Bị cáo có bố đẻ là người có công với Cách mạng được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhì, nhận thức được hành vi trái pháp luật đã ra đầu thú. Vì vậy cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho gia đình anh Nguyễn Văn D. Đại diện gia đình nạn nhân đã nhận đủ số tiền bồi thường như đã thỏa thuận và không thắc mắc, không yêu cầu bồi thường thêm, đồng thời không có ý kiến khác về trách nhiệm dân sự. Hội đồng xét xử không xét.

[7] Về vật chứng, xử lý vật chứng: 01 bằng nghề số hiệu 01000399049 mang tên Trần Đức L. do trường đào tạo nghề kỹ thuật vận tải thủy cấp ngày 14/5/2004 trả lại cho bị cáo.

[8] Về những vấn đề khác: Đối với 01 xe mô tô Honda Dream màu nâu BKS 29Y5 7 – 120.47 xác định thuộc sở hữu của ông Nguyễn Văn E (là bố đẻ anh Dũng), cơ quan điều tra đã trả lại ông Nguyễn Văn E là có căn cứ pháp luật; Đối với 01 máy xúc nhãn hiệu Doosan Dx55W màu đỏ BKS 29Y5 -12047 thuộc sở hữu của anh Lã Đức Thắng, cơ quan điều tra đã trả lại anh Thắng, anh Thắng nhận lại và không có ý kiến thắc mắc gì nên không xét; Đối với anh Nguyễn Văn Dũng, giám định trong máu dương tính với Morphine, anh Dũng đã tử vong, vì vậy cơ quan điều tra không xử lý là có căn cứ pháp luật; Chiếc máy xúc BKS 20LA – 0835 không có giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường, cơ quan điều tra đã chuyển tài liệu đến đội cảnh sát giao thông huyện Thường Tín để giải quyết theo thẩm quyền là đúng quy định của pháp luật.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; Đại diện hợp pháp cho bị hại; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, 332,333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260; Điều 65; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106; 136; 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, nộp, miễn, giảm, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Long Đức phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Về hình phạt: Xử phạt Trần Long Đ. 15 (mười lăm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 (ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Trần Long Đ. cho UBND xã T., huyện T., thành phố H. giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về xử lý vật chứng: Trả lại bị cáo 01 bằng nghề số hiệu 000399049 mang tên Trần 8 Long Đ. do trường đào tạo nghề kỹ thuật vận tải thủy cấp ngày 14/5/2004.

Về án phí: Bị cáo Trần Long Đ. phải chịu 200.000đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Đại diện hợp pháp cho bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 40/2022/HS-ST

Số hiệu:40/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Trì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về