TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂY SƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 33/2022/HS-ST NGÀY 04/07/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Trong ngày 04 tháng 7 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 33/2022/TLST-HS ngày 27 tháng 05 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2022/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 06 năm 2022 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn C, sinh năm 1988 tại huyện T, tỉnh B; nơi cư trú: thôn H, xã B, huyện T, tỉnh B; nghề nghiệp: tài xế lái xe; trình độ văn hoá: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đ, sinh năm 1940 và bà Trần Thị K, sinh năm 1944; vợ: Phan Thị Mỹ L, sinh năm 1996; con: 01 người, sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: chưa; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người bị hại:
Phạm Thị Ch, sinh năm 1958 (đã chết).
- Người đại diện hợp pháp của bị hại Phạm Thị Ch:
+ Võ Xuân Q, sinh năm 1979;
+ Võ Công T, sinh năm 1982;
Đồng trú tại: thôn T, xã T, huyện T, tỉnh B.
+ Võ Xuân T, sinh năm 1984;
+ Võ Thị Mỹ H, sinh năm 1987;
Đồng trú tại: thôn H, xã B, huyện T, tỉnh B.
+ Võ Thị Kim H, sinh năm 1989;
Trú tại: thôn K, xã N, thị xã A, tỉnh B.
- Người đại diện theo ủy quyền: Võ Công T, sinh năm 1982;
Trú tại: thôn T, xã T, huyện T, tỉnh B (có mặt), theo văn bản ủy quyền ngày 29/01/2022.
- Bị đơn dân sự:
Công ty TNHH Vận Tải N.
Địa chỉ: Số 32 Hai Bà T, phường L, thành phố Q, tỉnh B.
- Người đại diện theo pháp luật của công ty:
Trương Quang L – Chức vụ: Giám đốc; sinh năm 1983.
Trú tại: 17 D, phường N, thành phố Q, tỉnh Q (có đơn vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 06 giờ ngày 16/01/2022, Nguyễn Văn C (sinh năm 1988 ở thôn H, xã B, huyện T, tỉnh B), có giấy phép lái xe ô tô hạng FC, điều khiển xe ô tô đầu kéo BKS 77C-200.56 kéo sơ mi rơ moóc BKS 77R-030.99 chở dăm gỗ từ công ty T thuộc thôn Th, xã T, huyện T đến Cảng Q. Đến khoảng 06 giờ 37 phút cùng ngày, khi đi đến đoạn Km46 + 500m Quốc lộ 19 thuộc thôn H, xã B, huyện T, tỉnh B, C điều khiển xe ô tô đi bên phải đường (phần bên phải xe ô tô sát với vạch phân chia hai làn đường) với vận tốc 54km/h, mặc dù biết đây là khu vực dân cư, có đường không ưu tiên giao nhau với Quốc lộ 19, dù đoạn đường thẳng nhưng do không chú ý quan sát phía trước nên không thấy bà Phạm Thị Ch (sinh năm 1958) ở cùng địa phương đang điều khiển xe mô tô BKS 77H1-035.78 đi chậm từ đường bê tông phía nam Quốc lộ 19 vào Quốc lộ 19 và rẽ phải đi về phía trước cùng chiều. Khi đến cách ngã ba giao nhau với đường không ưu tiên khoảng 02 - 03m, C mới phát hiện thấy bà Ch đang đi sát vạch chia hai làn đường ở phía trước cùng chiều, cách đầu xe C khoảng 06- 07m, cách lề đường phía nam khoảng 1,7m, do khoảng cách gần, C không kịp xử lý né tránh, đã để phần đầu xe phía trước bên phải xe ô tô va chạm với xe mô tô do bà Ch điều khiển gây tai nạn. Hậu quả bà Ch chết trên đường đi cấp cứu.
Kết quả khám nghiệm tử thi các dấu vết, tổn thương trên cơ thể bà Ch gồm: Mũi, miệng có máu; xây xát bầm tụ máu trán, gò má trái; xây xát, sưng nề bầm tụ máu diện rộng thái dương đỉnh chẩm trái; cổ lỏng lẻo gãy kín liên đốt sống cổ C3- C4; bàn tay trái quấn băng, mở băng thấy sưng nề, bầm tụ máu toàn bộ bàn tay, dập nát đốt 3 ngón V, gãy kín xương bàn tay ngón I, III; bầm tụ máu mặt trước gối trái, vỡ kín xương bánh chè trái. Mổ vùng thái dương trái: bầm tụ máu dưới da diện rộng, vỡ xương sọ, có nhiều máu chảy qua đường vỡ. Trung tâm pháp y tỉnh B kết luận nguyên nhân chết: Sốc đa chấn thương.
Nguyễn Văn C đã khắc phục hậu quả cho gia đình nạn nhân bà Phạm Thị Cha với số tiền là: 200.000.000 (Hai trăm triệu) đồng. Gia đình nạn nhân bà Phạm Thị Ch đã có đơn bãi nại và không yêu cầu gì thêm.
Hiện trường vụ tai nạn giao thông được mô tả tại biên bản hiện trường, biên bản xác định hiện trường và sơ đồ hiện trường.
Vật chứng Cơ quan CSĐT – Công an huyện T thu giữ được:
+ 01 (Một) xe ô tô đầu kéo nhãn hiệu CHENGLONG, màu sơn bạc, BKS 77C-200.56 kéo sơ mi rơ moóc nhãn hiệu XINHONGDONG, màu sơn xanh, BKS 77R-030.99 của Công ty TNHH Vận Tải N, Cơ quan điều tra đã giao trả cho chủ sở hữu.
+ 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu sơn đỏ - bạc, BKS 77H1-035.78 Cơ quan điều tra đã giao trả cho chủ sở hữu.
Tại Bản cáo trạng số 21/CT – VKSTS ngày 13/05/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn C về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a Khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T giữ nguyên quan điểm như cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
* Về hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm a Khoản 1 Điều 260; điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C mức án từ 12 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách theo quy định.
* Về bồi thường thiệt hại: Các bên đã thỏa thuận bồi thường xong, đại diện hợp pháp gia đình bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử miễn xét.
Bị cáo, đại diện hợp pháp gia đình bị hại không có ý kiến tranh luận về quan điểm luận tội cũng như đề nghị giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã thấy hối hận xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, đại diện hợp pháp người bị hại, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh và Điều luật áp dụng: Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu, thể hiện:
Bị cáo Nguyễn Văn C là tài xế lái xe cho Công ty TNHH vận tải N do ông Trương Quang L làm Giám đốc, có ký kết hợp đồng lao động, có giấy phép lái xe ô tô hạng FC theo quy định. Khoảng 06 giờ sáng ngày 16/01/2022, bị cáo C điều khiển xe ô tô tải đầu kéo, BKS 77C – 200.56 kéo sơ mi rơ móoc BKS 77R-030.99 của Công ty tham gia giao thông để chở dăm gỗ đi từ Công ty Thành N tại thôn Th, xã T, huyện T đến Cảng Q. Đến khoảng 06 giờ 37 phút cùng ngày, khi đi đến tại đoạn Km46 + 500m Quốc lộ 19 thuộc thôn H, xã B, huyện T do không chú ý quan sát đã để phần đầu xe phía trước bên phải xe ô tô tông vào xe mô tô BKS 77H1- 035.78 do bà Phạm Thị Ch điều khiển, đang đi ở phần đường phía trước cùng chiều gây tai nạn giao thông. Hậu quả: Bà Phạm Thị Ch chết do sốc đa chấn thương. Lỗi hoàn toàn thuộc về bị cáo. Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn C đã vi phạm khoản 1 Điều 12 của Luật Giao thông đường bộ. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm phương tiện cùng các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn C đã phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” được quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 260 của Bộ luật hình sự như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố là có căn cứ.
[3] Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm và nghiêm trọng, không những gây thiệt hại đến tính mạng của bà Phạm Thị Ch một cách trái pháp luật mà còn gây mất trật tự an toàn giao thông đường bộ ở địa phương. Do đó, cần xử lý bị cáo bằng pháp luật hình sự mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:
[4.1] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.
[4.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.
[4.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo đã khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại với số tiền 200.000.000 đồng; gia đình bị hại đã có đơn bãi nại về dân sự, tại phiên tòa tiếp tục xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo là lao động chính trong gia đình, phạm tội lần đầu, có con còn nhỏ tuổi và vợ đang mang thai. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, phạm tội với lỗi vô ý, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, mà áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[5] Về bồi thường thiệt hại: Các bên đã bồi thường xong, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên miễn xét.
[6] Về án phí hình sự: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Văn C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a Khoản 1 Điều 260; điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự;
Căn cứ Điều 135; Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự;
Căn cứ vào điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
2. Về hình phạt:
2.1 Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 15 (Mười lăm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 (Ba mươi) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 04/07/2022).
2.2 Giao bị cáo Nguyễn Văn C cho Ủy ban nhân dân xã B, huyện T, tỉnh B quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo Nguyễn Văn C thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
3. Về bồi thường thiệt hại: Các bên đã thỏa thuận bồi thường xong, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên miễn xét.
4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn C phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.
5. Về quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo và các đương sự biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ khi nhận được hoặc niêm yết bản án theo quy định.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 33/2022/HS-ST
Số hiệu: | 33/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tây Sơn - Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về