Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 29/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 29/2022/HS-PT NGÀY 04/05/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Trong ngày 15/4/2022, tại Tòa án Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 11/2022/TLPT-HS ngày 16 tháng 02 năm 2022, đối với bị cáo Nguyễn Lê Hữu Nh; do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 03/2022/HS-ST ngày 13 tháng 01 năm 2022 của Tòa án Nhân dân huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2022/QĐXXPT-HS ngày 01 tháng 4 năm 2022.

- Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Lê Hữu Nh, sinh ngày 21 tháng 3 năm 2003, tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: số 06/1 B, phường Ph, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: sinh viên; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hữu Đ và bà Lê Thị Thanh H; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo tại ngoại, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 9 giờ 30 phút, ngày 29/5/2021 Nguyễn Lê Hữu Nh không có giấy phép lái xe hạng A1 trực tiếp điều khiển xe mô tô 75F1-539.23 chở Nguyễn Thị Thùy L, còn Nguyễn Viện Ph điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 75AF- 011.10 chở Đặng Thị Ngọc Th. Cả nhóm đi từ nhà của Th lên huyện A Lưới, khi đến Km 50+00 thuộc Quốc lộ 49 do đường dốc, xe yếu nên Ph nói Nh chở Th và Nh đồng ý. Lúc này, Nguyễn Lê Hữu Nh chở L ngồi giữa và Th ngồi sau cùng, khi đến Km50+600 thuộc Quốc lộ 49 thuộc địa phận xã Hương Nguyên, huyện A Lưới là đoạn đường cong, xuống dốc, khuất tầm nhìn, nhưng do thiếu quan sát, không làm chủ tốc độ nên bị cáo Nh đã điều khiển xe mô tô mang kiểm kiểm soát 75F1-539.23 lấn sang làn đường bên trái của xe đi ngược chiều dẫn đến va chạm gây tai nạn giao thông với xe mô tô mang kiểm soát 75H1-115.39 do anh Nguyễn Quốc T và xe mô tô mang biển kiểm soát 75H1-048.21 do anh Lê Đình Hợp điều khiển theo hướng ngược lại. Hậu quả: Chị Nguyễn Thị Thùy L ngã xuống đường dẫn đến tử vong.

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường, xác định được như sau: Hiện trường vụ tai nạn tại Km50+600 thuộc Quốc lộ 49 thuộc địa phận xã Hương Nguyên, huyện A Lưới, đoạn đường được rải thảm nhựa, cong, dốc, tầm nhìn bị hạn chế, đường rộng 5,7m được chia thành hai luồng đường, mỗi luồng rộng 2,85m ngược chiều nhau, được phân cách bởi dải phân cách màu vàng đứt quãng. Chọn chiều khám nghiệm theo hướng xã Bình Tiến, thị xã Hương Trà đi xã Hồng Hạ, huyện A Lưới, chọn gương cầu lồi làm điểm mốc, chọn mép đường bên phải theo chiều khám nghiệm làm lề chuẩn, quá trình khám nghiệm, lực lượng chức năng đã ghi nhận:

Vị trí số (1): Vết dầu kích thước (0,4m x 0,1m) có chiều hướng từ mép đường phải sang mép đường trái, khởi điểm cách mép đường phải 5,5m và cách điểm mốc 30,3m về phía xã Hồng Hạ, điểm kết thúc cách lề chuẩn 5,7m.

Vị trí số (2): Vết cày kích thước (0,3m x 0,2m) có chiều hướng từ xã Bình Tiến đến xã Hồng Hạ, khởi điểm vết cày cách lề chuẩn 5,3m và cách điểm kết thúc ở vị trí (1) là 0,85m về phía xã Hồng Hạ, điểm kết thúc cách là chuẩn 5,3m.

Vị trí số (3): Xe mô tô biển kiểm soát 75H1-115.39 đang trong tình trạng dựng đứng, đầu xe hướng về xã Bình Tiến, đuôi xe hướng về xã Hồng Hạ, trục trước xe cách lề chuẩn 7,2m, trục sau xe cách lề chuẩn 6,3m và cách điểm kết thúc ở vị trí số (2) 1,6m về phía xã Hồng Hạ.

Vị trí số (4): Vết cày kích thước (8,2m x 0,01m) có chiều hướng từ xã Bình Tiến đến xã Hồng Hạ, khởi điểm vết cày cách lề chuẩn 5m và cách trục sau xe ở vị trí số (3) 1,2m về phía xã Hồng Hạ, điểm kết thúc cách lề chuẩn 4,6m.

Vị trí số (5): Xe mô tô biển kiểm soát 75H1-04821 đang trong tình trạng ngã nghiêng sang trái, đầu xe hướng về xã Bình Tiến, đuôi xe hướng về xã Hồng Hạ, trục trước xe cách lề chuẩn 5,85m và cách khởi điểm ở vị trí số (4) 1,4m về phía xã Hồng Hạ, trục sau xe cách lề chuẩn 7,2m.

Vị trí số (6): Vùng dịch có kích thước (0,4m x 01m) tâm vùng dịch cách lề chuẩn 5,4m và cách trục trước xe ở vị trí số (5) 5,4m về phía xã Hồng Hạ.

Vị trí số (7): Xe mô tô biển kiểm soát 75F1-539.23 đang trong tình trạng ngã nghiêng sang trái, đầu xe hướng vào mép đường bên phải theo chiều đi từ xã Bình Tiến đến xã Hồng Hạ, đuôi xe hướng vào mép đường bên trái theo chiều đi từ xã Bình Tiến đến xã Hồng Hạ, trục trước xe cách lề chuẩn 5,3m và cách tâm vùng dịch ở vị trí số (6) 2,9m về phía xã Hồng Hạ, trục sau xe cách lề chuẩn 6,5m.

Tại Biên bản khám nghiệm các phương tiện:

- 01 (một) xe mô tô mang biển kiểm soát 75F1-539.23 nhãn hiệu HONDA, tên loại LEAD, màu đỏ, dung tích xi lanh 125cm, số máy JF45E0883440, số khung RLHJF4510FY151183 xác định: Gương chiếu hậu bên trái, phần gương bị gãy vỡ và rời khỏi vị trí ban đầu; Mặt nạ xe bị gãy vỡ và rời khỏi vị trí ban đầu kích thước (38cm x 30cm); Dè chắn bùn trước phía trước có bám dính chất màu đen có kích thước (07cm x 48cm); Vành xe trước bên trái bị mài sáng phần kim loại có kích thước (01cm x 02cm). Điểm gần nhất cách chân van 35cm; Phần đĩa thắng trước bị cong vênh xô dồn từ ngoài vào trong và lệch khỏi vị trí ban đầu 02 cm; Phuộc trước bên trái xe bị mài sáng phần kim loại có kích thước (02cm x 06cm) đồng thời có bám dính chất màu đỏ kích thước (04cm x 16cm); Yếm chắn gió bên trái xe bị gãy vỡ tạo vùng có kích thước (40cm x 20cm); Thanh kim loại bảo vệ thân xe phần bên trái bị mài sáng phần kim loại có kích thước (05cm x 01cm) đồng thời có bám dính chất màu đỏ kích thước (14cm x 01cm); Gác chân sau bên phải bị mài sáng phần kim loại có kích thước (23cm x 09cm); Ốp nhựa bảo vệ ống giảm thanh bị mài tua phần nhựa kích thước (06cm x 08cm); Hệ thống lái bị kẹt không điều chỉnh được.

- 01 (một) xe mô tô mang biển kiểm soát 75H1-115.39 ghi nhận các dấu vết sau: Cụm đèn chiếu sáng bị gãy vỡ và rời khỏi vị trí ban đầu; Yếm chắn gió bên trái xe bị gãy vỡ và rời khỏi vị trí ban đầu tạo vùng có kích thước (30cm x 60cm); Bộ phận lọc gió phần mút ngoài cùng bên trái có bám dính chất màu đỏ kích thước (04cm x 08cm); Cần số phần phía trước bị cong vênh, xô dồn từ trước về sau, lệch khỏi vị trí ban đầu 03 cm, phần cao su bị mài làm sáng phần mũi tạo vùng kích thước (03cm x 01 cm); ốp nhựa thân xe bên trái bị nứt vỡ kích thước (10cm x 01 cm); Cụm đèn tín hiệu, đèn báo hiệu sau bị nứt vỡ có kích thước (02cm x 20cm); Đèn tín hiệu bên phải bị gãy vỡ tạo vùng có kích thước (10cm x 04cm); Lốc máy bên trái xe bị gãy vỡ gây chảy dầu trong máy có kích thước (10cm x 07cm); Ốp nhựa bảo vệ đầu xe bên trái có bám dính chất màu đỏ có kích thước (10cm x 07cm).

- 01 (một) xe mô tô mang biển kiểm soát 75H1-048.21 ghi nhận các dấu vết sau: Gương chiếu hậu bên phải, phần gương bị gãy vỡ rời khỏi vị trí ban đầu; Ốp nhựa bảo vệ đầu xe có bám dính chất bẩn màu vàng kích thước (10cm x 07cm); Gác chân trước bên phải có bám dính chất bẩn màu vàng kích thước (03cm x 01 cm).

- Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số: 282/GĐ ngày 11/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận nguyên Nh chết của Nguyễn Thị Thùy L như sau:

1. Các kết quả giám định chính: Tử thi nữ giới 18 tuổi, thể trạng trung bình, lạnh, xác cứng một phần, hoen đang hình thành mặt sau cơ thể; Vùng mặt bầm, trầy, rách da nham nhở phức tạp; Gãy vỡ phức tạp hệ thống xương vùng 2/3 tầng mặt trên; Dập não, xuất huyết tổ chức não.

2. Kết luận nguyên Nh chết: Chấn thương sọ não;

3. Cơ chế hình thành dấu vết: Các tổn thương vùng mặt do tác động với vật tày.

Kết quả xét nghiệm Ethanol (nồng độ cồn trong máu) của Nguyễn Lê Hữu Nh ngày 29/5/2021 tại Bệnh viện Trung ương Huế là 0.0 mmol/L.

Tại Công văn số: 275/SGTVT-QLĐT,SH&NL ngày 10/6/2021 của Sở Giao thông vận tải tỉnh Thừa Thiên Huế xác định Nguyễn Lê Hữu Nh không có tên trong danh sách quản lý giấy phép lái xe cơ giới đường bộ tại phòng Quản lý đào tạo, sát hạch và người lái Sở Giao thông vận tải tỉnh Thừa Thiên Huế.

Tại Kết luận định giá tài sản số: 39/KL-HĐĐGTS ngày 24/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên của huyện A Lưới kết luận: Thiệt hại tài sản của xe mô tô 75H1-115.39 sau khi vụ tai nạn là: 5.100.000 đồng (Năm triệu một trăm ngàn đồng); Thiệt hại tài sản của xe mô tô 75H1-048.21 sau khi vụ tai nạn là: 150.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng).

Vật chứng thu giữ của vụ án:

- 01 (Một) xe mô tô mang biển kiểm soát 75F1-539.23; 01 (Một) xe mô tô mang biển kiểm soát 75H1- 115.39; 01 (Một) xe mô tô mang biển kiểm soát 75H1 048.21; 01 (Một) giấy chứng minh Nhân dân tên Nguyễn Quốc Tú; 01 (Một) giấy chứng minh Nhân dân tên Lê Đình Hợp; 01 (Một) giấy đăng ký xe mô tô số 010512 đối với xe mô tô biển kiểm soát 75H1-115.39; 01 (Một) giấy đăng ký xe mô tô số 006579 đối với xe mô tô mang biển kiểm soát 75H1- 048.21; 01 (Một) giấy phép lái xe mang tên Lê Đình Hợp (bản sao); 01 (Một) giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Quốc Tú (bản sao):

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện A Lưới đã ra Quyết định xử lý vật chứng số: 10/XLVC-CAAL ngày 20/9/2021 và Quyết định xử lý vật chứng số:

12/XLVC-CAAL ngày 08/10/2021 trả lại cho anh Lê Đình Hợp:

- 01 (Một) xe mô tô mang biển kiểm soát 75H1-048.21; 01 (Một) giấy chứng minh Nhân dân tên Lê Đình Hợp; 01 (Một) giấy đăng ký xe mô tô số 006579 đối với xe mô tô biển kiểm soát 75H1-048.21.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện A Lưới đã ra Quyết định xử lý vật chứng số: 11/XLVC-CAAL ngày 20/9/2021 và Quyết định xử lý vật chứng số:

13/XLVC-CAAL ngày 08/10/2021 trả lại cho anh Nguyễn Quốc Tú:

- 01 (Một) xe mô tô mang biển kiểm soát 75H1-115.39; 01 (Một) giấy chứng minh Nhân dân tên Nguyễn Quốc Tú; 01 (Một) giấy đăng ký xe mô tô số 010512 đối với xe mô tô biển kiểm soát 75H-115.39.

Qua xác minh xe mô tô mang biển kiểm soát 75F1-539.23, nhãn hiệu HONDA, tên loại LEAD, màu đỏ do bà Lê Thị Thanh Huyền đứng tên trên giấy chứng nhận đăng ký. Vào sáng ngày 29/5/2021, bị cáo Nguyễn Lê Hữu Nh tự ý lấy xe mô tô 75F1-539.23 để đi của mẹ đẻ là chị Lê Thị Thanh Huyền mà không xin phép ai.

Trách nhiệm dân sự: Bị cáo Nguyễn Lê Hữu Nh đã tự nguyện bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Thị Thùy L số tiền 117.000.000 đồng vài đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm về mặt dân sự. Anh Nguyễn Quốc Tú và anh Lê Đình Hợp đã được gia đình bị cáo Nh bồi thường thiệt hại về phần hư hỏng của hai phương tiện nên hiện nay không yêu cầu gì thêm.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2022/HS-ST ngày 13/01/2022 của Tòa án Nhân dân huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế đã căn cứ điểm a khoản 2 Điều 260, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Lê Hữu Nh phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” Xử phạt bị cáo Nguyễn Lê Hữu Nh 18 (mười tám) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng; án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng theo luật định.

Ngày 19/01/2022, bị cáo Nguyễn Lê Hữu Nh có Đơn kháng cáo Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án Nhân dân huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo xin bổ sung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin được hưởng án treo; Đại diện Viện kiểm sát Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế trình bày quan điểm về tính hợp pháp của kháng cáo và Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự là có căn cứ. Toà án cấp sơ thẩm áp dụng hình phạt đối với bị cáo là phù hợp, tuy nhiên xét thấy hiện nay bị cáo có hoàn cảnh đang là sinh viên năm cuối, sau tai nạn đã bị gãy xương phải nẹp vít, đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại; nghĩ cần xem xét giảm nhẹ hình phạt 06 tháng cho bị cáo. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, sửa Bản án sơ thẩm, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: bị cáo kháng cáo trong thời gian quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm, lời khai của bị cáo thống nhất với nội dung vụ án đã được nêu trên, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở kết luận:

Vào khỏang 10 giờ 30 phút, ngày 29 tháng 05 năm 2021, Nguyễn Lê Hữu Nh (không có giấy phép lái xe hạng A1 theo quy định), đã trực tiếp điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát 75F1-539.23 (có dung tích xi lanh trên 50cm3), phía sau chở chị Nguyễn Thị Thùy L và Đặng Thị Ngọc Th đi theo hướng từ xã Bình Điền, thị xã Hương Trà lên huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thừa Thiên Huế. Khi đi đến Km50+600 Quốc lộ 49 thuộc địa phận xã Hương Nguyên, huyện A lưới là đoạn đường cong, xuống dốc, tầm nhìn bị che khuất nên Nh đã không làm chủ tốc độ, điều khiển phương tiện lấn sang làn đường bên trái của xe đi ngược chiều (chiếm 2,45m) dẫn đến va chạm với các xe mô tô mang biển số kiểm soát 75H1-115.39 và xe mô tô 75H1-048.21 do các anh Nguyễn Quốc Tú, Lê Đình Hợp điều khiển theo chiều ngược lại dẫn đến xảy ra tai nạn.

Hậu quả: làm chị Nguyễn Thị Thùy L ngã xuống đường dẫn đến tử vong tại chỗ.

Hành vi điều khiển xe mô tô có dung tích xi lanh trên 50m3 không có giấy phép lái xe theo quy định, đi không đúng phần đường; chở số người vượt quá quy định; không giảm tốc độ khi có báo hiệu cảnh báo nguy hiểm, tầm nhìn bị hạn chế, đường có địa hình quanh co, đèo dốc nên bị cáo Nh đã vi phạm khoản 9 Điều 8, khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 30, điểm a khoản 2 Điều 59 Luật giao thông đường bộ; Khoản 1, 2, 3 Điều 5 Thông tư số: 31/2019/TT-BGTVT ngày 29/8/2019 của Bộ giao thông vận tải “Quy định về tốc độ và khoảng cách an toàn của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ”, gây hậu quả làm chết 01 người. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Vì vậy, Tòa án Nhân dân huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế đã xử phạt bị cáo Nguyễn Lê Hữu Nh về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ và đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo:

Quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội đã tự nguyện bồi thường, khắc phục toàn bộ thiệt hại cho gia đình bị hại số tiền 117.000.000 đồng; bị cáo có Nh thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; lần đầu phạm tội; có nơi cư trú rõ ràng, ổn định. Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, đại diện nhà trường nơi bị cáo đang theo học có đơn cứu xét và đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo có điều kiện tiếp tục học tập, gia đình bị hại đã có đơn bãi nại và xin cho bị cáo được hưởng án treo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Tại phiên tòa bị cáo bổ sung xin được giảm nhẹ hình phạt.

Bị cáo đã trình bày đã nhận thức được lỗi của mình trong vụ án, và đã bị xét xử là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không oan. Tuy nhiên, hoàn cảnh gia bị cáo hiện nay khó khăn nhưng đã cố gắng khắc phục bồi thường toàn bộ thiệt hại cho gia đình bị hại, gia đình bị hại có đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt và đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo, sau tai nạn bản thân bị cáo cũng bị thương tật (gãy tay phải và phải nẹp vít) và phải điều trị dài ngày. Đề nghị cấp phúc thẩm xem xét và chấp nhận nội dung kháng cáo để bị cáo tiếp tục học tập, có điều kiện giúp đỡ gia đình khắc phục hậu quả.

Về xin được hưởng án treo: Do lỗi chính hoàn toàn thuộc về bị cáo, hậu quả vụ án nghiêm trọng làm chết một người nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo.

Xét thấy cấp sơ thẩm đã áp dụng mức hình phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ; tuy nhiên qua xem xét nhân thân và hoàn cảnh của bị cáo, ý kiến đề nghị của gia đình bị hại, xét thấy mức hình phạt 01 năm 06 tháng tù đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc.

Do đó, cần xem xét chấp nhận một phần kháng cáo để sửa án sơ thẩm, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo như ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa và đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo cũng đảm bảo răn đe, giáo dục bị cáo và thể hiện chính sách khoan hồng, Nhân đạo của pháp luật. Đồng thời tạo cơ hội cho bị cáo có điều kiện rèn luyện, cải tạo, học tập.

[3] Án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ điểm d, h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo Nguyễn Lê Hữu Nh không phải chịu.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Áp dụng điểm d, h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; tuyên xử:

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Lê Hữu Nh, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2022/HS-ST ngày 13/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Áp dụng điểm a khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 260, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Lê Hữu Nh 01 (một) năm tù, về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

2. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Lê Hữu Nh không phải chịu.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm số 03/2022/HS-ST ngày 13/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

315
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 29/2022/HS-PT

Số hiệu:29/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về