Theo thống kê của TANDTC trong công tác xét xử các vụ án xâm phạm trật tự an toàn giao thông, các Tòa án đã thụ lý theo thủ tục sơ thẩm 4.045 vụ với 4.212 bị cáo; đã xét xử 3.754 vụ với 3.892 bị cáo (so với năm 2019, số thụ lý tăng 99 vụ với 151 bị cáo, số xét xử tăng 419 vụ với 763 bị cáo). Trong số 3.754 bị cáo phạm tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đã xét xử, các Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử phạt tù từ trên 07 năm đến 15 năm đối với 17 bị cáo; tù từ 03 năm đến 07 năm đối với 255 bị cáo; tù từ 3 năm trở xuống đối với 1.496 bị cáo, còn lại là các hình phạt khác. Các vụ án xâm phạm trật tự, an toàn giao thông có xu hướng tăng với tính chất, mức độ thiệt hại trong nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng như làm nhiều người tử vong, gây thiệt hại lớn về tài sản....
Để nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án này, TANDTC cũng đã chú trọng làm tốt công tác tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt là tập huấn các văn bản pháp luật mới liên quan tới trật tự an toàn giao thông cho đội ngũ Thẩm phán,Thư ký; chủ động làm tốt công tác tổng kết thực tiễn xét xử và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám đốc việc xét xử để kịp thời rút kinh nghiệm những sai sót trong quá trình giải quyết, xét xử. Tuy nhiên, qua công tác xét xử, chúng tôi thấy rằng việc giải quyết các vụ án về vi phạm giao thông gặp một số khó khăn nhất định, xuất phát từ những bất cập, thiếu sót từ hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.
Thứ nhất, một số quy định của pháp luật BLHS về các tội xâm phạm an toàn giao thông chưa rõ ràng (mục 1 Chương XXI của BLHS, gồm 26 điều từ Điều 260 đến Điều 284), còn nhiều quan điểm, cách hiểu khác nhau như:
- Việc xác định “thiệt hại về tài sản” đối với trường hợp người tham gia giao thông đường bộ vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tài sản của chính họ hoặc tài sản mà họ là người đang quản lý, sử dụng (thông qua việc thuê, mượn) thì thiệt hại này có được xác định để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự tại khoản 1 các điều 260, 264, 266, 272 và 276 của BLHS hay không. Mặc dù, hiện nay, nội dung này đã được TANDTC giải đáp tại tiểu mục 4 mục I Công văn số 02/TANDTC-PC ngày 02/8/2021 đã xác định không coi thiệt hại này là “thiệt hại cho người khác”.
+ Thiệt hại về tài sản thực tế có được tính bao gồm cả phần thuế giá trị gia tăng (VAT) hoặc tiền thuê cẩu, kéo, trục vớt phương tiện…hay không.
- Việc xác định thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng quy định tại khoản 2, khoản 3 các điều 283 và 284 chưa có quy định chi tiết.
- Xác định thế nào là trường hợp “có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả” quy định tại khoản 4 các điều 260, 267, 272, 273, 278 và khoản 1 Điều 277. Thực tiễn, rất nhiều hành vi vi phạm an toàn giao thông nhưng không phải tất cả các hành vi đó đều có thể bị xác định “có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả” để truy cứu trách nhiệm hình sự. Do đó, quy định này cần có điều kiện cụ thể nào, hành vi vi phạm cụ thể nào thì bị xem xét xử lý trách nhiệm.
Ví dụ: Người điều khiển phương tiện ô tô trên cao tốc lùi xe, bị người có thẩm quyền phát hiện, nhắc nhở nhưng chưa gây ra hậu quả có áp dụng tình tiết phạm tội “có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả” hay không.
- Xác định tình tiết định khung hình phạt “không có giấy phép lái xe” đối với trường hợp người vi phạm an toàn giao thông điều khiển phương tiện xe tự chế. Có quan điểm cho rằng, đây là loại xe tự chế, không thuộc đối tượng được cấp giấy phép lái xe, nên không thể áp dụng tình tiết này. Có quan điểm cho rằng, phải áp dụng tình tiết này mặc dù đó là xe tự chế, đây cũng là một trong những biện pháp tuyên truyền, phổ biến đến người dân trong việc tự chế xe không được phép của cơ quan, người có thẩm quyền.
- “Vũ khí” quy định tại điểm b khoản 2 có đồng nhất với “vũ khí quân dụng” theo quy định tại Điều 304 của BLHS hay cần quy định riêng biệt.
- Việc “Tổ chức cá cược” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 265 của BLHS được hiểu là đánh cược thắng thua bằng tiền, hiện vật hoặc các lợi ích khác dựa vào kết quả của cuộc đua xe trái phép. Có quan điểm cho rằng, hành vi này là hành vi cấu thành 02 tội tổ chức đánh bạc (Điều 322) và tội tổ chức đua xe trái phép mới đúng tính chất, mức độ, hành vi phạm tội.
- Xác định các tình tiết định khung hình phạt “nơi tập trung đông dân cư”, “thủ đoạn nguy hiểm khác”, “người chỉ huy phương tiện giao thông”, “thiết bị an toàn giao thông”…cũng chưa được quy định cụ thể.
Thứ hai, một số quy định của BLTTHS về khởi tố vụ án đối với các tội xâm phạm an toàn giao thông còn thiếu tính khả thi, chưa phù hợp thực tiễn hoặc chưa rõ ràng. Cụ thể:
- Công tác giám định thiệt hại gặp nhiều khó khăn, nhất là các trường hợp bị hại từ chối giám định, nhiều trường hợp sau khi xảy ra vi phạm các bên đã làm thay đổi hiện trạng hoặc không thông báo đến cơ quan có thẩm quyền để giải quyết.
- Theo quy định tại khoản 2 Điều 164 của BLTTHS thì một số cơ quan khác thuộc Công an nhân dân có thẩm quyền khởi tố vụ án án hình, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án. Có thể nói, đây là quy định không thể thi hành được trên thực tiễn trong thời gian qua, đặc biệt là các vụ án vi phạm về an toàn giao thông. Bởi lẽ:
+ Thời hạn điều tra ban đầu 07 ngày là quá ngắn, dẫn tới việc thu thập chứng cứ ban đầu trở thành bài toán khó cho cơ quan có thẩm quyền.
+ BLTTHS trao quyền khởi tố vụ án nhưng “không trao gậy” cho người có thẩm quyền của cơ quan được giao một số hoạt động điều tra thực hiện các hoạt động liên quan đến trưng cầu giám định, xem xét dấu vết trên thân thể, định giá tài sản, dẫn đến không có căn cứ khởi tố vụ án.
+ Nguồn chứng cứ để làm căn cứ khởi tố vụ án phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục của BLTTHS, tuy nhiên, nhiều chứng cứ đã được thu thập, đánh giá bằng thủ tục xử lý vi phạm hành chính lại không được sử dụng làm căn cứ ban đầu để xử lý trách nhiệm hình sự. (Ví dụ: đã có kết quả đo nồng độ cồn trong hơi thở của người vi phạm, nếu theo xử lý vi phạm hành chính thì đủ căn cứ, nhưng không thể sử dụng để làm căn cứ khởi tố vụ án, vì phải thực hiện giám định theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục).
- Việc xác định tư cách tham gia tố tụng của người điều khiển phương tiện giao thông là người dưới 18 tuổi trong trường hợp giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện giao thông chưa thống nhất. Có trường hợp xác định là người làm chứng, có trường hợp xác định là người có liên quan.
Thứ ba, bất cập, hạn chế bởi các quy định của Luật Tổ chức các cơ quan điều tra hình sự, BLTTHS chưa có sự tương thích, thiếu phù hợp thực tiễn. (Ví dụ: theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 35 của BLTTHS được hiểu cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có thể có cán bộ điều tra. Tuy nhiên, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự lại không quy định có cán bộ điều tra tại các cơ quan này….).
Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án liên quan đến tai nạn giao thông, trong thời gian tới các cơ quan, người có thẩm quyền cần triển khai, thực hiện các giải pháp như sau:
Thứ nhất, Bộ Công an cần rà soát, tổng kết đánh giá tính đồng bộ, tương thích của Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự và BLTTHS về thẩm quyền, cơ cấu tổ chức của cơ quan công an được giao một số hoạt động điều tra phù hợp với tình hình thực tiễn. Trước mắt, để tránh kéo dài thời gian phải sửa đổi, bổ sung đồng thời các đạo luật này, xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự trong đó cần bổ sung trong cơ cấu, tổ chức của cơ quan công an được giao một số hoạt động điều tra có Điều tra viên, cán bộ điều tra[3].
Thứ hai, đề nghị Bộ Công an phối hợp cùng Tòa án nhân dân tối cao khẩn trương nghiên cứu, đề xuất Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết hướng dẫn một số quy định của BLHS về tội xâm phạm an toàn giao thông.
Thứ ba, xây dựng chương trình đào tạo nghiệp vụ, tập huấn chuyên sâu về kỹ năng điều tra cho các lực lượng cảnh sát giao thông.
Thứ tư, tăng cường các hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về an toàn giao thông. Đổi mới, linh hoạt các phương thức tuyên truyền.
NGUYỄN CHÍ CÔNG, HOÀNG THỊ SONG MAI (Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học TANDTC)
Nguồn: Tạp chí Toà án