Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 19/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CĐ, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 19/2022/HS-ST NGÀY 24/05/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 24 tháng 5 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện CĐ, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 16/2022/TLST- HS ngày 20 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Tuấn T (tên gọi khác: Không), sinh năm 1989, tại Đồng Tháp; Nơi cư trú: Ấp 3, xã TK, huyện TM, tỉnh Đồng Tháp; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1966 và bà Nguyễn Thị Ch, sinh năm 1966; Anh chị em ruột: 03 người; Có vợ Lê Thị Ngọc X, sinh năm 1992 (đã ly hôn) và có 02 con, lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2010; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Lê Văn H, sinh năm 2000 (đã chết);

- Người đại diện hợp pháp của bị hại:

1. Ông Lê Trung H, sinh năm 1978 (cha ruột, vắng mặt).

2. Bà Lê Thị Thu V, sinh năm 1978 (mẹ ruột, vắng mặt).

3. Chị Nguyễn Thị Mộng Tr, sinh năm 2001 (vợ, vắng mặt).

4. Cháu Nguyễn Lê Đan Th, sinh ngày 08/5/2020 (con ruột).

5. Cháu Nguyễn Lê Phát Đ, sinh ngày 07/12/2018 (con ruột).

Người giám hộ cho cháu Th, cháu Đ: Chị Nguyễn Thị Mộng Tr (mẹ ruột, vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Ấp TĐ, xã TT, huyện CG, tỉnh Long An.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Vận tải H NG Người đại diện theo pháp luật: Ông Huỳnh Văn H1 – chức vụ: Giám đốc.

Địa chỉ: 20 Đường A, Khu Villa A, Phường PT, Quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền của ông H1: Ông Huỳnh Thanh Nh (theo văn bản ủy quyền ngày 23/5/2022) 2. Ông Huỳnh Thanh Nh, sinh năm 1976.

Địa chỉ: 137B/5A ấp 2, xã APT, huyện HC, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút, ngày 17/10/2021, Nguyễn Tuấn T điều khiển xe đầu kéo biển số 51D-043.81 kéo theo rơmooc biển số 51R-000.40 từ Cảng Quốc tế TT, thuộc xã TT, huyện CG, tỉnh Long An đến huyện TP, tỉnh Tiền Giang để giao 32.580kg cám nguyên liệu. Đến khoảng 20 giờ 05 phút cùng ngày, T điều khiển lưu thông trên Hương lộ 19 theo hướng từ Ngã tư Chợ Trạm đến Ngã tư Rạch Kiến, khi đến địa phận ấp CM, xã ML, huyện CĐ, tỉnh Long An thì xảy ra va chạm với xe mô tô biển số 62M1-446.91 do Lê Văn H điều khiển lưu thông theo hướng ngược lại (H chưa có giấy phép lái xe theo quy định). Do xe T chở nặng nên điều khiển xe lấn sang phần đường bên trái thì phát hiện hướng ngược lại có đèn xe mô tô chạy tới và tiếng máy nổ lớn, T chưa kịp nhìn kỹ thì xe mô tô đã đụng vào phần đầu xe đầu kéo do Tđiều khiển. Hậu quả, H đa chấn thương tử vong tại hiện trường.

Qua trích xuất Camera tại thời điểm trước khi xảy ra tai nạn thì H điều khiển xe mô tô lưu thông trên đường Hương lộ 19 hướng từ xã Long Hòa đến Ngã tư Chợ Trạm và lấn sang đường bên trái, sau đó có xe đầu kéo biển sổ 51D- 043.81 kéo theo rơmooc biển số 51R-000.40 do T điều khiển cũng lấn sang phần đường hướng ngược lại, khu vực 02 xe va chạm nằm ngoài góc quay của camera nên không thấy được.

Kết quả khám nghiệm hiện trường: Mặt đường trải nhựa rộng 6,6m, thẳng, phẳng có vạch kẻ đường đứt quảng, tuy nhiên tại nơi 02 xe va chạm do trước đó thi công cống thoát nước nên vạch sơn kẻ đường chưa vẽ lại, không có biển báo. Hiện trường được khám nghiệm theo hướng từ Ngã tư Chợ Trạm đến xã Long Hòa, chọn mép đường bên trái làm mép đường chuẩn, các số đo vào mép đường chuẩn được đo vuông góc, chọn trụ thứ 3 của cống thoát nước (cống Ba Mau) bên phải làm mốc cố định.

Sau khi sự việc xảy ra, các cơ quan chức năng tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm phương tiện và kết quả khám nghiệm, đo đạc thì xác định được vùng va chạm giữa hai xe nằm trên đường bên trái, theo hướng khám nghiệm, cách lề chuẩn 1,7m.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 861/2021/KLGĐ ngày 25/10/2021, của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Long An kết luận:

1. Dấu hiệu chính qua giám định: Vùng trán và mặt bên trái có nhiều vết trày xước da.

Dập môi trên bên trái, trầy xước da vùng cằm. Cổ: Nhiều vết trày xước da.

Ngực: Nhiều vết trày xước da. Xây sát da vùng mông trái.

Mặt trước đùi trái có vết rách da trên diện rộng sâu đến lớp cơ đùi, kích thước (20x11)cm, gãy 1/3 trên xương đùi trái.

Bầm tụ máu dưới da đầu vùng thái dương trái, vỡ xương hộp sọ vùng thái dương trái dài 5cm vỡ hộp sọ giữa trái, xuất huyết dưới nhện vùng bán cầu phải.

2. Nguyên nhân chết: là do bị đã chấn thương (vỡ hộp sọ, dập gẫy xương đùi.

Tại bản kết luận giám định pháp y về hóa pháp số: HST 673/ĐC.2021, ngày 26/10/2021 của Trung tâm Pháp y Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Nồng độ Ethanol trong máu của Lê Văn H là 245,33mg/100ml.

Khi làm việc với Cơ quan điều tra Nguyễn Tuấn T khai tên là Vũ Đình Đ, sinh năm 1987; Đăng ký hộ khẩu thường trú: xã TK, huyện VN, tỉnh Thanh Hóa và chứng minh nhân dân số 1172734125 và giấy phép lái xe hạng FC số 310163847201 mang tên Vũ Đình Đ. Qua xác minh Cơ quan điều tra Công an huyện CĐ xác định được chứng minh nhân dân số 1172734125 và giấy phép lái xe hạng FC số 310163847201 mang tên Vũ Đình Đ là giả theo kết luận giám định số 62/2022/KL-KTHS ngày 11/12/2022 của Phòng ký thuật hình sự Công an tỉnh Long An. Sau đó T khai nhận mua Chứng minh nhân dân và giấy phép lái xe giả trên của một nam thanh niên không rõ lai lịch trên mạng xã hội Facebook vào khoảng năm 2018 - 2019 với giá 3.500.000đồng. Khi đến chở thuê cho ông Nh thì T nói đã có giấy phép lái xe theo quy định, ông Nh không biết đó là giấy giả.

Tại Cáo trạng số: 16/CT-VKSCĐ ngày 18/4/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện CĐ đã truy tố Nguyễn Tuấn T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện CĐ giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 260; Điều 38; Điều 50; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn T từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù. Đề nghị không phạt bổ sung bị cáo. Về dân sự bị cáo và ông Nh đã thỏa thuận bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 205.000.000đồng và gia đình bị hại cũng không yêu cầu gì thêm nên không xem xét. Đối với ông Huỳnh Thanh Nh Không biết T sử dụng giấy phép lái xe giả nên mới giao xe cho T điều khiển, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CĐ không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ông Nh là phù hợp. Đối với bà Lê Thị Thu V chủ xe mô tô biển số 62M1-446.91, do H tự ý lấy xe điều khiển tham gia giao thông rồi gây tai nạn, bà V không biết H lấy xe điều khiển nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện CĐ không xem xét xử lý trách nhiệm đối với bà V là phù hợp. Đối với hành vi của Nguyễn Tuấn T sử dụng Chứng minh nhân dân và giấy phép lái xe giả nhằm mục đích tìm việc làm nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện CĐ chuyển xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.

Bị cáo Nguyễn Tuấn T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản Cáo trạng đã nêu và đồng ý với các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Viện kiểm sát nhân dân huyện CĐ truy tố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự là không oan, đúng người, đúng tội. Bị cáo không tranh luận và không nói lời sau cùng.

Ông Huỳnh Thanh Nh trình bày: Đối với số tiền 105.000.000đồng ông bồi thường cho gia đình bị hại thì ông không yêu cầu T có trách nhiệm trả lại, trong vụ án này ông và Công ty TNHH vận tải H NG không có yêu cầu gì. Ông đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Ông không tranh luận và đồng ý với các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, có căn cứ xác định các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ vào lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, lời khai của đại diện gia đình bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập được như bản kết luận giám định pháp y về tử thi, kết luận giám định pháp y về hóa pháp, sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm phương tiện và được thẩm tra tại phiên tòa có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 17/10/2021, bị cáo Nguyễn Tuấn T không có giấy phép lái xe theo quy định, điều khiển xe đầu kéo biển số 51D-043.81 kéo theo rơmooc biển số 51R-000.40 tham gia giao thông từ Cảng Quốc tế Tân Tập, xã TT huyện CG, tỉnh Long An đến huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang để giao hàng. Khi đến khu vực thuộc ấp CM xã ML, huyện CĐ, tỉnh Long An thì T điều khiển xe lấn sang phần đương ưu tiên cho xe lưu thông hướng người lại, vi phạm khoản 1 Điều 9 của Luật giao thông đường bộ nên đã va chạm với xe mô tô biển số 62M1 - 446.91 do Lê Văn H điều khiển theo chiều ngược lại. Hậu quả làm chết một người là anh H. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện CĐ đã truy tố bị cáo Nguyễn Tuấn T ra trước Tòa án nhân dân huyện CĐ để xét xử về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Căn cứ quyết định hình phạt:

[3.1] Lỗi của bị cáo: Bị cáo biết xe cơ giới lưu thông trên đường là nguồn nguy hiểm cao độ, người điều khiển phải tuyệt đối chấp hành các quy định của Luật giao thông để tránh gây tai nạn nhưng bị cáo không chấp hành đúng khi không có giấy phép lái xe theo quy định để điều khiển phương tiện tham gia giao thông, ngoài ra bị cáo còn không đi đúng phần đường theo quy định nên lỗi của bị cáo là vô ý do cẩu thả.

[3.2] Các tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[3.3] Các tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải về hành vi đã gây ra; bị cáo đã cùng chủ phương tiện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho gia đình bị hại số tiền 205.000.000 đồng, được người đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt và đề nghị không khởi tố vụ án; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, mới phạm tội lần đầu, gia đình bị cáo có truyền thống cách mạng bà nội bị cáo được Chủ tịch nước tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” cha bị cáo được tặng “huy hiệu 30 năm tuổi đảng”. Đồng thời, trong vụ án này cũng có lỗi một phần của bị hại khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông không có giấy phép lái xe theo quy định và có nồng độ cồn trong máu vượt quá quy định, vi phạm điểm e khoản 8 Điều 6 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019. Do vậy, áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3.4] Về áp dụng hình phạt: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội không những xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ còn gây hậu quả làm một người chết. Hiện nay tình hình tai nạn giao thông tại địa phương diễn biến hết sức phức tạp và có xu hướng tăng, gây hoang mang lo lắng trong nhân dân khi tham gia giao thông nguyên nhân chủ yếu là do người điều khiển phương tiện giao thông không chấp hành luật khi tham gia giao thông. Hành vi của bị cáo gây ra hậu quả rất nghiêm trọng. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định để giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung nên áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Tuy nhiên, bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 và nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo đủ điều kiện được áp dụng quy định khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự để quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với bị cáo.

[3.5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy hiện nay bị cáo chỉ có công việc duy nhất là làm thuê, không có thu nhập ổn định nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị hại đã nhận tiền bồi thường của bị cáo và ông Nh số tiền 205.000.000đồng và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên không xem xét.

[5] Đối với bà Lê Thị Thu V là chủ xe mô tô biển số 62M1-446.91, do H tự ý lấy điều khiển tham gia giao thông rồi xảy ra tai nạn, bà V không biết H lấy xe điều khiển tham gia giao thông nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện CĐ không xem xét xử lý trách nhiệm hình sự là có cơ sở.

[6] Đối với ông Huỳnh Thanh Nh không biết T sử dụng bằng lái giả nên mới giao xe cho T. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CĐ không truy cứu trách nhiệm hình sự là có cơ sở.

[7] Về hành vi T mua và sử dụng Chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe giả nhằm mục đích tìm việc làm nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CĐ chuyển sang xử phạt vi phạm hành chính theo quy định là phù hợp.

[8] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Tuấn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 260; Điều 38; Điều 50; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Tuấn T nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung vào công quỹ.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo và các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định của Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 19/2022/HS-ST

Số hiệu:19/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Đước - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về