Bản án 38/2021/HS-ST ngày 21/09/2021 về vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯƠNG KHÊ, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 38/2021/HS-ST NGÀY 21/09/2021 VỀ VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 21/9/2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 36/2021/TLST-HS ngày 20/8/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2021/QĐXXST-HS ngày 07/9/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Viết D, sinh ngày: 05/10/1990; nơi sinh: Xã C, huyện C, tỉnh H; nơi cư trú: Thôn T, xã C, huyện C, tỉnh H; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn L, sinh năm 1957 và bà Nguyễn Thị T (Đã chết); có vợ là Lê Thị H, sinh năm 1991 và 03 người con, đứa lớn 07 tuổi, nhỏ 01 tuổi; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 14/5/2021 cho đến nay; có mặt.

- Bị hại: Cháu Lê Trần Bảo L1, sinh năm: 2008 (đã chết).

- Người đại diện hợp pháp của bị hại cháu Lê Trần Bảo L1 (đã chết), gồm có: Anh Lê Đình N, sinh năm 1979; chị Trần Thị V, sinh năm 1980; đều có địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện T, tỉnh H;

Người đại diện theo ủy quyền của chị Trần Thị V: Anh Lê Đình N, sinh năm 1979; địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện T, tỉnh H; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Chị Trần Thị V, sinh năm 1980; địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện T, tỉnh H.

Người đại diện theo ủy quyền của chị Trần Thị V: anh Lê Đình N, sinh năm 1979; địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện T, tỉnh H; vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Anh H1, sinh năm 1981; địa chỉ: Khối 07, phường Hà Huy Tập, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; có mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Nguyễn Văn H2, sinh năm 1985; địa chỉ: Xóm 8, xã Đỉnh Bàn, huyên Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh; có mặt.

+ Ông Nguyễn Văn H3, sinh năm 1942; ông Bùi Văn Thái, sinh năm: 1960; ông Nguyễn Văn Lượng, sinh năm 1976; bà Nguyễn Thị Mai, sinh năm 1959; đều có địa chỉ: Xóm 12, xã Hà Linh, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 30 phút, ngày 07/3/2021, Phạm Viết D, sinh năm 1990, trú tại thôn T, xã C, huyện C, tỉnh H, có giấy phép lái xe theo quy định (là lái xe thuê cho Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ L, ở số 18 Nguyễn Chí T, phường N, thành phố H) điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 38C-013.35 của Công ty, chở anh Nguyễn Văn H2, sinh năm 1985, trú tại xóm 08, xã Đỉnh Bàn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh ngồi bên ghế phụ, chạy từ thành phố H theo tuyến đường QL15A lên thị trấn H để giao hàng. Khoảng 10 giờ 10 phút cùng ngày, khi đi đến Km399+550 đường QL15 thuộc địa phận xóm 12, xã H, huyện H, tỉnh H lúc này trời mưa, xe chạy với tốc độ khoảng 65km/h. Khi cách khoảng 30 đến 40m, Phạm Viết D phát hiện xe mô tô hiệu Honda Lead, màu vàng, biển kiểm soát 38M1-034.79 do chị Trần Thị V, sinh năm 1980, trú tại Thôn T, xã N, huyện T, tỉnh H điều khiển, chở theo con trai Lê Trần Bảo L1, sinh năm 2008 đi cùng chiều, phía trước. Một lát sau thì xe mô tô do chị V điều khiển bị ngã xuống đường, trượt trên đường, xe mô tô quay đầu hướng thị trấn H đi H rồi dừng lại, cháu L1 tự đứng dậy, chị V đang đỡ xe mô tô. Cùng lúc đó, do không giữ khoảng cách an toàn theo quy định (xe ô tô do Phạm Viết D điều khiển cách xe mô tô do chị V điều khiển khoảng 12m), mặt khác do trời mưa, đường trơn, nên mặc dù đã đạp phanh nhưng xe của Duẫn không giảm được tốc độ (xe trượt trên đường), nên xe ô tô do Phạm Viết D điều khiển đã đâm vào người cháu L1, khiến cháu L1 rơi xuống mương thoát nước bên phải đường, rồi xe ô tô tiếp tục đâm vào xe mô tô và người chị V, đẩy xe và người 1 đoạn khoảng 07m, rơi xuống mương thoát nước, xe ô tô bị quay ngang trên đường và dừng lại. Hậu quả cháu Lê Trần Bảo L1 bị thương nặng, được điều trị tại bênh viện Quốc tế Huế từ ngày 07/3/2021 đến ngày 15/3/2021 thì tử vong; chị Trần Thị V bị thương nhẹ; xe mô tô và xe ô tô bị hư hỏng một phần.

Hiện trường vụ tai nạn giao thông nằm khu vực Km399+550 đường Quốc lộ 15 thuộc địa phận xóm 12, xã H, huyện H, tỉnh H. Đường rộng 7m, đoạn đường thẳng. Mặt đường rải thảm nhựa át pha bằng phẳng, ở giữa tâm đường có vạch sơn kẻ màu vàng, dứt quãng, hai bên có vạch kẻ sơn màu trắng nét liền, kế tiếp là mương thoát nước bằng bê tông, rộng 1,3m, sâu 1,1m. Có 02 lề đường, mỗi lề rộng 1,5m. Phía Bắc là hướng đi thành phố H, phía Nam là hướng đi thị trấn H, phía Đông tiếp giáp bãi đất trống, phía Tây tiếp giáp với vườn ông Bùi Văn T.

Lấy cột điện số LT10 ở mép đường bên phải hướng thành phố H đi thị trấn H làm mốc cố định. Lấy mép đường trong vạch kẻ sơn đường màu trắng phía bên phải theo hướng thành phố H đi H làm mép chuẩn. Từ mốc cố định đo về hướng thị trấn H 75m là đầu vết trượt màu đen, vết trượt rộng 0,2m, dài 22,8m, điểm đầu vết trượt đo ra mép chuẩn là 2,6m, vết trượt không ngắt quảng, điểm cuối vết trượt nằm dưới mặt lăn bánh xe ô tô BKS 38C-013.35 phía sau bên trái. Từ điểm đầu vết trượt đo ra mép chuẩn là 2,5m (ký hiệu 01). Từ điểm đầu vết trượt số 01 đo về thị trấn H 1,1m là điểm đầu vết trượt thứ 01 màu đen, rộng 0,2m, vết trượt chạy theo hình vòng cung dài 21m, điểm đầu vết trượt đo ra mép chuẩn là 2,3m, điểm cuối vết trượt đo thứ 02 nằm dưới mặt lăn bánh xe ô tô BKS 38C-013.35 phía trước bên phải, điểm cuối vết trượt đo đo ra mép chuẩn là 0,7m (ký hiệu 02). Từ điểm đầu vết trượt thứ 02 đo về thị trấn H 01m là điểm đầu vết cày thứ nhất, rộng 0,02m, ngắt quãng dài 12,3m, điểm đầu vết cày đo ra mép chuẩn là 01m, điểm cuối vết cày đo ra mép chuẩn là 0,55m.

Điểm cuối vết cày thứ 01 tiếp nối với điểm đầu vết cày thứ 02 đo ra mép chuẩn là 0,5m, điểm cuối vết cày thứ 02 nằm ngoài mép chuẩn, đo vào mép chuẩn là 1,2m (hai vết cày được ký hiệu là 03, 04). Từ điểm đầu vết cày thứ 02 đo về thị trấn H 4,2m là vùng chất dính máu đỏ (nghi là máu), kích thước 0,7x0,7m và 01 mũ bảo hiểm màu đen. Vũng máu và mũ bảo hiểm nằm dưới mương thoát nước.

Từ tâm vũng máu đo vào mép chuẩn là 2,6m. Từ điểm vết cày thứ 02 đo về thị trấn H 7,5m là trục trước bánh xe bên phải xe ô tô BKS 38C-013.35, xe ô tô trong tư thế đỗ, nằm ngang đường, tắt máy. Đầu ô tô hướng ra mép chuẩn, đuôi ô tô hướng ra tâm đường. Từ trục trước bên phải xe ô tô đo về hướng thị trấn H 3,3m là trục sau xe mô tô BKS 38M1-034.79, xe mô tô nằm dưới mương thoát nước, từ trục sau xe mô tô đo vào mép chuẩn là 2,6m, trục trước xe mô tô đo vào mép chuẩn là 2,6m.

Ngày 16/3/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Hương Khê trưng cầu giám định Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh giám định về dấu vết cơ học trong vụ tai nạn giao thông. Theo kết luận giám định số 12/PC09-GĐCH ngày 30/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận: Xe ô tô BKS 38C-013.35 và xe mô tô BKS 38M1-034.79 có va chạm với nhau. Đầu xe mô tô với đèn chiếu sáng phía trước bên trái xe ô tô là vị trí va chạm của hai phương tiện. Hai phượng tiện va chạm gần như vuông góc với nhau. Vị trí va chạm của hai phương tiện nằm trên phần đường phía bên phải theo chiều thành phố H đi thị trấn H. Không có cơ sở kết luận tốc độ của hai phương tiện tại thời điểm xảy ra tai nạn.

Ngày 04/5/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Hương Khê ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung số 01/CSĐT trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh giám định về dấu vết cơ học trong vụ tai nạn giao thông và Quyết định trưng cầu giám định lại số 02/CSĐT trưng cầu Viện khoa học hình sự Bộ Công an tỉnh giám định về dấu vết cơ học trong vụ tai nạn giao thông.

Theo kết luận giám định số 19/PC09-GĐCH ngày 11/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận: Dấu vết méo mó tại nắp cabin phía trước đầu xe và dấu vết rạn vỡ kính chắn gió phía trước đầu xe ô tô BKS 38C-013.35 được hình thành do va chạm với vật tày, cứng, theo chiều từ trước ra sau; dấu vết trợt xước sơn tại mặt dưới thanh ba đơ xốc của xe ô tô BKS 38C- 013.35 và vết gãy vỡ kim loại, bám dính chất bẩn màu xanh tại giá bảo vệ phía sau yên xe mô tô BKS 38M1-034.79 được hình thành do quá trình xảy ra tai nạn ba đơ xốc trước xe ô tô va chạm với giá bảo vệ phía sau yên xe mô tô; gương chiếu hậu bên phải xe mô tô BKS 38M1-034.79 và chạm với đèn chiếu sáng phía trước bên trái xe ô tô BKS 38C-013.35; xe ô tô BKS 38C-013.35 va chạm với phần đuôi của xe mô tô BKS 38M1-034.79 khi xe mô tô không di chuyển trên đường.

Theo kết luận giám định số 3804/C09-P3 ngày 31/5/2021 Viện Khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Không xác định được tốc độ của xe ô tô BKS 38C- 013.35 và xe mô tô BKS 38M1-034.79 ngay trước thời điểm xảy ra tai nạn.

Ngày 14/5/2021 Cơ quan Điều tra Công an huyện Hương Khê ra Quyết định thực nghiệm điều tra số 01/CSĐT và tiến hành thực nghiệm điều tra tại hiện trường nơi xảy ra vụ tai nạn giao thông. Căn cứ bảng biểu thực nghiệm điều tra cho thấy cả 03 lần thực nghiệm lái xe không phanh được xe ô tô dừng để đảm bảo an toàn cho người và phương tiện phía trước theo quy định pháp luật.

Khám nghiệm tử thi cháu Lê Trần Bảo L1, xác định các dấu vết, tổn thương trên cơ thể: Hốc mắt trái bầm tụ máu; mi trên bên trái có vết thương kích thước 1,5x0,5cm; đuôi lông mày trái có đám sưng nề kích thước 08cmx07cm, trên nền sưng nề có vết thương kích thước 02cmx0,7cm; đỉnh trái có đám sưng nề kích thước 11cmx06cm; trên trước gai chậu trái có vêt xây xát da kích thước 05cmx02cm; gối phải có xết xây xát da kích thước 1,5cmx02cm; giải phẫu vùng đầu thấy: Tụ máu dưới da đầu vùng trán, thái dương đỉnh trái; tách khớp xương hộp sọ vùng trán. Tại bản kết luận giám định pháp y tử thi số 75/GĐPY ngày 16/3/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận: Nguyên nhân chết của cháu Lê Trần Bảo L1: Chấn thương sọ não.

Ngày 29/3/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh ra công văn số 12 yêu cầu định giá tài sản để xác định thiệt hại về tài sản. Tại kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 10/2021/KLĐG xác định: Phần hư hỏng của xe ô tô BKS 38C-013.35 bị thiệt hại 3.900.000đ và xe mô tô BKS 38M1-034.79 bị thiệt hại 2.756.000đ.

Về vật chứng: 01 xe ô tô tải, hiệu HUYNHDAI, màu xanh, ô tô BKS 38C-013.35, xe đã qua sử dụng; 01 xe mô tô hãng HONDA, loại Lead, màu vàng đen, BKS 38M1-034.79, xe đã qua sử dụng; 01 mũ bảo hiểm lưỡi trai, màu đen; 01 gương chiếu hậu xe mô tô bên phải bị gãy chân gương, vỡ phần kính bên trong. Trong quá trình điều tra Cơ quan Điều tra đã trả lại vật trên cho chủ sở hữu.

Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bị cáo đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 220.000.000đ. Hiện nay gia đình bị hại không ai có yêu cầu gì thêm và đề nghị xem xét miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Tại bản cáo trạng số 33/CT-VKS-HK ngày 10/8/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo Phạm Viết D về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Phạm Viết D đã khai nhận về hành vi của mình như nội dung trên. Lời nói sau cùng của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo có cơ hội được cải tạo tại địa phương, làm ăn nuôi sống gia đình.

Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Phạm Viết D về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 9 đến 12 tháng tù và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Viết D đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Đối chiếu lời khai nhận tội của bị cáo với lời khai của những người tham gia tố tụng và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa như biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm phương tiện liên quan trong vụ tai nạn, Kết luận giám định, biên bản thực nghiệm điều tra, kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hương Khê, biên bản khám nghiệm tử thi, các biên bản điều tra là phù hợp. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Khoảng 09 giờ 30 phút, ngày 07/3/2021, Phạm Viết D có giấy phép lái xe hợp lệ, điều khiển xe ô tô tải, hiệu HUYNHDAI, màu xanh, BKS 38C - 013.35, với tốc độ khoảng 65km/h chạy từ thành phố H đến thị trấn H. Khoảng 10 giờ 10 phút cùng ngày, khi đi đến Km399+550 đường Quốc lộ 15A thuộc địa phận xóm 12, xã H, huyện H phát hiện xe mô tô nhãn hiệu Honda, BKS 38M1 - 034.79 do chị Trần Thị V điều khiển, chở theo cháu Lê Trần Bảo L1 đi cùng chiều bị ngã xuống đường, cháu L1 vừa đứng dậy, còn chị V đang đỡ xe mô tô đứng dậy. Do không giữ khoảng cách an toàn, không giảm được tốc độ (vì đường trơn trượt), nên xe ô tô do Phạm Viết D điều khiển đã đâm vào cháu Lê Trần Bảo L1, khiến cháu L1 rơi xuống mương thoát nước bên phải đường, rồi tiếp tục đâm vào xe mô tô và chị Trần Thị V, khiến xe mô tô cùng chị V rơi xuống mương thoát nước bên lề đường bên phải. Còn xe ô tô quay ngang đường rồi dừng lại.

Hậu quả cháu L1 cháu Lê Trần Bảo L1 bị thương nặng, được điều trị tại Bệnh viện Quốc tế Huế từ ngày 07/3/2021 đến ngày 15/3/2021 thì tử vong.

Hành vi của bị cáo do không tuân thủ các quy định khi tham gia giao thông đường bộ, không giữ khoảng cách an toàn, không giảm được tốc độ, nên đã vi phạm vào khoản 1 Điều 12 Luật Giao thông đường bộ, nên gây tai nạn hậu quả làm chết một người. Do đó, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Cáo trạng của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Sau khi tại nạn bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải. Do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả” và “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, gia đình bị hại xin bãi nại nên bị cáo, gia đình hoàn cảnh khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận được hưởng tình tiết giảm nhẹ khác quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Xét về tính chất hành vi và các tình tiết giảm nhẹ thấy: Sự việc diễn ra lỗi không hoàn toàn thuộc về bị cáo, bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội với lỗi vô ý, được gia đình bị hại bãi nại, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, hoàn cảnh gia đình khó khăn, nên Hội đồng xét xử cần áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng án treo là phù hợp, thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật, tạo điều kiện cho bị cáo được giáo dục, cải tạo tại địa phương là phù hợp.

[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng các điều, khoản, điểm; tội danh; mức hình phạt; án phí là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về xử lý vật chứng: 01 xe ô tô tải, hiệu HUYNHDAI, màu xanh, ôBKS 38C-013.35, xe đã qua sử dụng; 01 xe mô tô hãng HONDA, loại Lead, màu vàng đen, BKS 38M1-034.79, xe đã qua sử dụng; 01 mũ bảo hiểm lưỡi trai, màu đen; 01 gương chiếu hậu xe mô tô bên phải bị gãy chân gương, vỡ phần kính bên trong. Trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã trả lại vật trên cho chủ sở hữu hợp pháp là hoàn toàn đúng với quy định của pháp luật, không ai có ý kiến gì về việc trả lại các tài sản này, nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Viết D phạm tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Viết D 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Phạm Viết D cho Ủy ban nhân dân xã C, huyện C, tỉnh H giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách án treo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

328
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 38/2021/HS-ST ngày 21/09/2021 về vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:38/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hương Khê - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về