TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ C, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 150/2021/HS-ST NGÀY 29/09/2021 VỀ VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 29 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 168/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 172/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:
Nguyễn V, sinh ngày: 21/8/ 2002 tại tỉnh Cà Mau; đăng ký thường trú: Ấp T, xã L, huyện T, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn L, sinh năm: 1947 và bà Nguyễn Đ, sinh năm: 1952; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú – có mặt.
Bị hại: Bà Ngô Q, sinh năm 2001; đăng ký thường trú: Tổ 6, ấp L, xã A, thị xã C, tỉnh Bình Dương (đã chết).
Người đại diện hợp pháp của bị hại:
1. Ông Ngô T, sinh năm: 1960; đăng ký thường trú: Ấp L, xã A, thị xã C, tỉnh Bình Dương (là cha của bị hại) – vắng mặt;
2. Bà Trịnh X, sinh năm: 1957; đăng ký thường trú: Ấp L, xã A, thị xã C, tỉnh Bình Dương (là mẹ của bị hại).
Bà Trịnh X ủy quyền cho ông Ngô T tham gia tố tụng (Giấy ủy quyền ngày 12/5/2020).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn B, sinh năm: 1975;
đăng ký thường trú: Ấp B, xã L, huyện T, tỉnh Cà Mau – vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn V chưa có giấy phép lái xe mô tô theo quy định.
Khoảng 21 giờ 40 phút ngày 09/5/2020, Nguyễn V điều khiển xe mô tô Suzuki Raider biển số 69N1-578.87 lưu thông ngược chiều trên Quốc lộ13 hướng từ ngã ba Công an thị xã C đến ngã tư S, phía sau chở Ngô Q, khi đến đến ngã ba Trường THCS Lê Đ thuộc khu phố 2, phường P, thị xã C, tỉnh Bình Dương thì va chạm vào dãy phân cách cứng. Sau khi tai nạn xảy ra, V và Q được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Dương, đến ngày 12/5/2020 thì Q tử vong.
Đoạn đường xảy ra vụ tai nạn là khu vực ngã ba giao nhau giữa Quốc lộ 13 và đường 2/9, tại ngã ba có gắn đèn tín hiệu giao thông, tại đầu dãy phân cách có biển báo đường một chiều. Quốc lộ 13 rộng 12m và được chia thành ba làn đường có làn mô tô rộng 06m, làn ô tô tải rộng 3m80, mặt đường bằng phẳng, khô ráo, được rải nhựa, tầm nhìn không bị che khuất.
Lấy trụ đèn tín hiệu giao thông nằm trên dãy phân cách của đường 2/9 với Quốc lộ 13 làm điểm mốc, lấy mép lề đường bên phải theo hướng đường S đến ngã tư ông G làm lề chuẩn. Hiện trường vụ tai nạn để lại như sau:
- Vết cày xe mô tô 69N1- 578.87: Đầu vết cày nằm trên dãy phân cách thuộc phần đường bên phải theo hướng từ Sở Sao đến ngã tư Ông G. Vết cày theo hướng từ thị xã C đến S. Từ đầu vết cày vào lề chuẩn là 17m10, từ đầu vết cày đến điểm mốc là 1m40. Từ đầu vết cày đến gát chân trước bên trái xe 69N1- 578.87 là 39m.
- Điểm bể: Nằm bên trái cổng trường Lê Đ theo hướng đường từ S đến thị xã C. Điểm bể từ tâm cách đất là 0m30, dài 0m18, rộng 0m40. Từ tâm điểm bể đến trục bánh trước xe mô tô là 1m10.
- Xe mô tô biển số 69N1- 578.87: Nằm ngã nghiêng bên trái trong lề phải, đầu xe chếch về hướng Sở Sao, đuôi xe chếch vào ngã tư ông G. Từ trục bánh trước xe ra lề chuẩn là 3m90, từ trục bánh sau xe ra lề chuẩn là 4m20. Xe mô tô biển số 69N1- 578.87 bị sây sát vỏ trước còn dính xi măng bê tông cứng, gãy cán, cong viền trước, cong 02 ống phuộc trước về sau, bể vè trước, gập vè sau, cong cổ lái về sau, bể bung mặt nạ trước, bể bung đèn chiếu sáng và 02 đèn xi nhan trước, bể bung đồng hồ km/h, sây sát lốc máy trái, cong mòn gác chân trước trái về sau, sây sát ốp hông trái, sây sát chống đứng trước, mòn gác chân trước sau trái.
- Vết máu: Nằm trong lề phải, từ vết máu ra lề phải là 11m20, từ vết máu đến trục bánh xe là 7m00.
Tang vật thu giữ tại hiện trường gồm: 01 (một) xe mô tô Suzuki Raider, biển số 69N1-578.87.
Ngày 15/5/2020, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương có kết luận giám định pháp y tử thi số 399/GĐPY kết luận nguyên nhân tử vong của Ngô Q là do: Đa chấn thương (Gãy xương sườn số 3, 4, 5 bên trái, Phổi hai bên dập tụ máu rải rác phổi, rốn phổi, xuất huyết dưới nhện bán cầu đại não vùng đỉnh).
Sau khi tai nạn xảy ra Nguyễn V bị thương nặng được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Dương đến ngày 29/5/2020 thì xuất viện. Ngày 13/11/2020, Trung tâm pháp y tỉnh Bình Dương có kết luận giám định số:
548/GĐPY xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên của Nguyễn Văn Vui là 47%.
Kết quả xét nghiệm tại Bệnh viện P xác định nồng độ cồn trong máu tại thời điểm lấy mẫu (22g22’ ngày 09/05/2021) của Nguyễn V là 171,6 mg/dL, của Ngô Q là 232,7 mg/dL.
Ngày 24/12/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương có kết luận giám định số 262/PC09, kết luận: Dấu vết va chạm giữa xe mô tô biển số 69N1-578.87 với lề đường và vật cản tại hiện trường là:
- Dấu vết trượt xước, bám dính bụi bê tông và chất màu đỏ (dạng sơn) ở cạnh dưới lốc máy bên trái, đầu cần số, gác chân trước bên trái, đầu tay lái bên trái và đầu tay côn phù hợp với dấu vết cày ký hiệu số 1 ở dãi phân cách và mặt được trên sơ đồ hiện trường.
- Dấu vết trượt xước, bám dính bụi bê tông ở phần đầu xe, trượt xước cong gập phuộc trước bên phải và trái, gãy vở ốp nhựa và các chi tiết cố định ở phần đầu bên phải xe mô tô biển số 69N1-578.87, có chiều từ trước về sau, phù hợp với dấu vết trượt xước vỡ bê tông ký hiệu số 2 ở cạnh thềm bên trái cồng trường Lê Đ trên sơ đồ hiện trường.
Tại Cơ quan điều tra Công an thị xã C, Nguyễn V khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai phù hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án.
Qua xác minh, xe mô tô Suzuki Raider, biển số 69N1-578.87 là của ô Nguyễn B (anh rể của V). Ngày 09/5/2020, ông B đi làm để xe mô tô trên tại phòng trọ, Vui tự ý lấy đi không nói cho ông B biết. Ngày 11/8/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã C đã ra Quyết định xử lý vật chứng, giao trả xe 69N1-578.87 cho ông B. Ông B đã nhận lại xe mô tô của mình và không yêu cầu bồi thường chi phí sửa chữa.
Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện hợp pháp của bị hại là ông Ngô T không yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Ông T có đơn bãi nại, đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho Nguyễn V.
Bản Cáo trạng số 169/CT-VKSBC ngày 25/8/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn V về tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a, b khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ như nội dung Cáo trạng nêu trên và không có ý kiến gì khác.
Tại phần tranh luận:
- Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C trình bày luận tội:
+ Giữ nguyên quyết định truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C tại Bản Cáo trạng số 169/CT-VKSBC ngày 25/8/2021;
+ Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 260; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017): Xử phạt bị cáo V từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.
+ Về trách nhiệm dân sự và vật chứng: Đã giải quyết xong.
- Bị cáo không bào chữa, không phát biểu ý kiến tranh luận với Kiểm sát viên.
Lời nói sau cùng của bị cáo Nguyễn V: Bị cáo nhận thức hành vi của bản thân là vi phạm pháp luật hình sự nên đồng ý với quyết định truy tố của Cáo trạng và luận tội của Kiểm sát viên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã C, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định pháp luật.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn V tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ, do đó có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Nguyễn V điều khiển xe mô tô khi có sử dụng bia rượu, nồng độ cồn đo được trong hơi thở là 171.6 mg/dL, không đi bên phải theo chiều đi của mình, không đi đúng làn đường, phần đường quy định. Thời điểm xảy ra tai nạn bị cáo V chưa có giấy phép lái xe. Hành vi của bị cáo vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ theo quy định tại khoản 8 Điều 8, khoản 1 Điều 9 và khoản 1 Điều 58 Luật giao thông đường bộ năm 2008. Hậu quả làm chết 01 người là Ngô Q. Xét hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Bản Cáo trạng số 169/CT-VKSBC ngày 25/8/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo với tội danh và điều khoản nêu trên là đúng người, đúng tội, phù hợp hoàn toàn với hành vi thực tế mà bị cáo đã gây ra.
[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
[3.1] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm, thể hiện sự xem thường pháp luật, không những gây ảnh hưởng đến an toàn giao thông mà còn xâm hại trực tiếp đến tính mạng của người khác và ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự công cộng tại địa phương. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được việc điều khiển phương tiện giao thông khi sử dụng rượu, bia là nguy hiểm nhưng vẫn cố ý thực hiện dẫn đến tai nạn làm bị hại tử vong. Do đó đối với bị cáo cần phải có mức hình phạt nghiêm minh, tương xứng với tính chất và mức độ phạm tội để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục.
[3.2] Bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo luật định là: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Người đại diện hợp pháp của bị hại có đơn bãi nại nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[3.3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[3.4] Bị cáo V thực hiện hành vi phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần, khả năng nhận thức pháp luật và điều khiển hành vi còn hạn chế nên cần xem xét khi quyết định hình phạt, cần áp dụng Điều 91, Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo.
[4] Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C về việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với bị cáo là phù hợp quy định của Bộ luật hình sự nên có cơ sở chấp nhận.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu nên không đặt vấn đề xem xét giải quyết.
[6] Về vật chứng: Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã C giao trả xe mô tô hiệu Suzuki Raider, biển số 69N1-578.87 cho chủ sở hữu là ông Nguyễn B là phù hợp. Ông B không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại nên không đặt vấn đề xem xét giải quyết.
[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a, b khoản 2 Điều 260, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91; Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Căn cứ vào Điều 136, Điều 260, Điều 299, Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 6, điểm c khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Về trách nhiệm hình sự:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn V phạm tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn V 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.
2. Về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng: Đã giải quyết xong.
3. Về án phí sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn V phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người đại diện hợp pháp của bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc niêm yết Bản án theo quy định./
Bản án 150/2021/HS-ST ngày 29/09/2021 về vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ
Số hiệu: | 150/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về