Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 16/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM KHÊ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 16/2021/HS-ST NGÀY 21/01/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 21/01/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C- tỉnh P, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 20/2021/TLST-HS, ngày 10/12/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2021/QĐXX-ST ngày 30/12/2021 đối với:

Bị cáo: Đào Mạnh T-sinh năm 1989 tại thành phố Y; nơi cư trú: Thôn Đ, xã G, thành phố Y, tỉnh Y; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Lái xe; trình Đ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Văn C- sinh năm 1962 và bà Nguyễn Thị L- sinh năm 1961; chưa có vợ, con;

Tiền sự, tiền án: Không;

Danh chỉ bản số 086 do Công an huyện C, tỉnh P lập ngày 29/3/2021;

Bị cáo không bị bắt tạm giữ, tạm giam. Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 29/3/2021 đến nay. Có mặt.

Bị hại:

1-Chị Tô P- sinh năm 2000; cư trú tại: Số 10, ngõ 81, phường N, quận C, thành phố H. Vắng mặt.

2-Chị Nguyễn Thu Tr- sinh năm 2000; cư trú tại: Số nhà 830, đường Đ, phường M, thành phố Y, tỉnh Y. Vắng mặt.

3-Chị Hoàng Thu T- sinh năm 1992; cư trú tại: Tổ 14, phường Y, thành phố Y, tỉnh Y. Vắng mặt.

4-Anh Nguyễn Xuân H- sinh năm 1978; cư trú tại: Phòng 408 chung cư B6 số 18, ngõ 178, Đ, phường M 1, quận N, thành phố H. Vắng mặt.

5-Chị Trần Thu H- sinh năm 2001; cư trú tại: Tổ 8, phường N, thành phố Y, tỉnh Y. Vắng mặt.

6-Anh Phạm Quang M- sinh năm 2002; cư trú tại: Số nhà 73, đường T, phường N, thành phố Y, tỉnh Y. Vắng mặt.

7-Cháu Nguyễn Văn L- sinh năm 2013; Người đại diện: Bà Hoàng Kim N- sinh năm 1989; nơi cư trú: Số nhà 28, ngõ C, phường T, quận Đ, thành phố H. Vắng mặt.

8-Chị Nguyễn Huyền T1- sinh năm 1993; cư trú tại: Phòng 1302CT14A1 khu đô thị N, quận T, thành phố H. Vắng mặt.

9-Chị Nguyễn Thị V - sinh năm 2000; cư trú tại: Số 27, ngõ 329, quận C, thành phố H. Vắng mặt.

10-Người đại diện hợp pháp của bị hại Đặng Thị Kiều L: Anh Nguyễn Thành G- sinh năm 1975; cư trú tại: Số nhà 830, đường Đ, Phường M, thành phố Y, tỉnh Y. Vắng mặt.

11-Anh Trần Tiến Đ - sinh năm 1982; nơi cư trú: khu 04, xã C, huyện C, tỉnh P. Vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1-Công ty cổ phần phần Đ; địa chỉ: Tổ 08 khu 02, phường V, thành phố V, tỉnh P.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Văn Đ1 - sinh năm 1973; chức vụ: Giám đốc. Vắng mặt.

2-Anh Đặng Thanh B- sinh năm 1979; nơi cư trú: Số nhà 26, ngõ 38 Tả T, huyện T, thành phố H. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Đào Mạnh T, sinh năm: 1989, ở thôn Đ, xã G, thành phố Y, tỉnh Y là lái xe thuê cho anh Đặng Thanh B, sinh năm: 1979, ở xã T, T, H. T được anh B giao lái xe chở khách loại limousin BKS: 29B - xxxxx, loại 10 chỗ ngồi chạy tuyến thành phố Y đi thành phố H và ngược lại, không có phụ xe. Xe chạy đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai. Sáng ngày 29/11/2020, Đào Mạnh T điều khiển xe ô tô BKS: 29B - xxxxx chở lượt khách đầu tiên từ thành phố Y đi thành phố H, sau đó chạy ngược lại về thành phố Y. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, T điều khiển xe đi đón khách ở thành phố Y, sau khi đón đủ khách thì T điều khiển xe đi lên Cao tốc Nội Bài – Lào Cai để đi thành phố H. Trên xe lúc này có 10 hành khách gồm: Chị Tô P, sinh năm: 2000, ở số 10 Ngõ 81 Nguyễn Phong S, C, H; chị Nguyễn Thu T, sinh năm: 2000, ở đường Đ, phường M, thành phố Y, tỉnh Y; chị Hoàng Thu T1, sinh năm: 1992, ở tổ 14, phường Y, thành phố Y, tỉnh Y; anh Nguyễn Xuân H, sinh năm: 1978, ở Chung cư B6, Đ, M, N, H; chị Trần Thu H, sinh năm: 2001, ở tổ 8, phường Nguyễn Thái H, thành phố Y, tỉnh Y; anh Phạm Quang M, sinh năm: 2002, ở số nhà 73, đường T, phường N, thành phố Y, tỉnh Y; cháu Nguyễn Văn L, sinh năm: 2013, ở số nhà 28 ngõ C, phường T, Đ, H; chị Nguyễn Huyền Tr, sinh năm: 1993, ở P1302 CT14A1 khu đô thị N, T, H; chị Nguyễn Th V, sinh năm: 2000, ở số 27 ngõ 329 C, H; chị Đặng Thị Kiều L, sinh năm: 1978, ở phường M, thành phố Y, tỉnh Y.

Khoảng 14 giờ 45 phút cùng ngày, khi đi đến Km82+800 Cao tốc Nội Bài - Lào Cai thuộc địa phận khu Đ2, xã M, huyện C, tỉnh P, do không chú ý quan sát, không làm chủ được tốc độ, không giữ khoảng cách an toàn với xe chạy liền trước nên xe ô tô do T điều khiển đã đâm vào đuôi xe ô tô đầu kéo BKS: 19C - xxxxx kéo theo sơ-mi-rơ-mooc BKS: 19R - xxxxx do anh Trần Tiến Đ, sinh năm: 1982, ở khu 4, xã C, huyện C, tỉnh P điều khiển đi cùng chiều phía trước.

Hậu quả: Chị Tô P, chị Nguyễn Thu Tr, chị Hoàng Thu T, chị Nguyễn Huyền T1, chị Nguyễn Th V, chị Đặng Thị Kiều L, anh Nguyễn Xuân H, cháu Nguyễn Văn L và lái xe Đào Mạnh T bị thương phải đi cấp cứu và điều trị tại Trung tâm y tế huyện C, Trung tâm y tế thành phố Y và Bệnh viện Hữu nghị V. Xe ô tô biển số 29B - xxxxx bị hư hỏng nặng, phần đuôi sơmi rơ-mooc BKS: 19R-xxxxx bị hư hỏng. Đến khoảng 01 giờ 30 phút ngày 30/11/2020, chị Đặng Thị Kiều L tử vong.

Kết quả khám nghiệm hiện trường thể hiện:

Lấy hướng tính từ Lào Cai đi H làm chiều khám nghiệm. Hiện trường xảy ra vụ tai nạn giao thông nằm trên mặt đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai (trên làn đường hướng từ Lào Cai đi H). Mặt đường được trải nhựa, đường thẳng, tầm nhìn không bị hạn chế, đường dốc lên về phía đi H dưới 10%, mặt đường có những rãnh lõm dọc (vết hằn lún vệt bánh xe không bằng phẳng), tại đây không có biển báo hiệu đường bộ, mặt đường được chia thành hai phần: Phần 1 là làn dừng xe khẩn cấp, thấp hơn so với mặt đường chính 0,03m, rộng 2,93m; Phần 2 là mặt đường chính được chia thành hai làn đường xe chạy có tổng chiều rộng là 8,7m. Vụ tai nạn giao thông nằm hoàn toàn trên làn đường thứ nhất (sát với dải phân cách cứng ở giữa đường).

Lấy mép đường trái của phần đường hướng từ Lào Cai đi H (tiếp giáp với chân dải phân cách cứng giữa đường) làm mép đường chuẩn. Lấy mép góc bê tông đầu hầm chui qua đường cao tốc (hầm chui gần cổng nhà ông bà H ở khu Đ 2, xã M, huyện C) làm điểm mốc cố định.

- Vị trí số (1): Vết cày xước đứt đoạn nằm trên mặt đường, có chiều hướng cùng chiều khám nghiệm, kích thước 4,42x0,05x0,005m. Điểm đầu vị trí số (1) cách mép đường chuẩn 2,9m và cách điểm mốc cố định 11,4m; điểm cuối vị trí số (1) cách mép đường chuẩn 3,1m.

- Vị trí số (2): Vết cày xước đứt đoạn nằm trên mặt đường, có chiều hướng cùng chiều khám nghiệm, kích thước 7,2x0,12x0,002m. Điểm đầu vị trí số (2) cách mép đường chuẩn 2,73m và cách điểm đầu vị trí số (1) là 0,2m. Điểm cuối vị trí số (2) cách mép đường chuẩn 2,7m.

- Vị trí số (3): Vết cày xước đứt đoạn nằm trên mặt đường, có chiều hướng cùng chiều khám nghiệm, kích thước 2,8x0,04x0,015m. Điểm đầu vịt trí số (3) cách mép đường chuẩn 3,1m và cách điểm đầu vị trí số (2) là 0,5m. Điểm cuối vị trí số (3) cách mép đường chuẩn 3,25m.

- Vị trí số (4): Vết cày xước nằm trên mặt đường, có chiều hướng cùng chiều khám nghiệm, kích thước 0,3x0,04x0,005m. Điểm đầu vị trí số (4) cách mép đường chuẩn 2,35m và cách điểm đầu vị trí số (3) là 0,8m. Điểm cuối vị trí số (4) cách mép đường chuẩn 2,4m.

- Vị trí số (5): Vết cày nằm trên mặt đường, có chiều hướng cùng chiều khám nghiệm, kích thước 0,45x0,05x0,015m. Điểm đầu vị trí số (5) cách mép đường chuẩn 2,25m và cách điểm đầu vị trí số (4) là 0,15m. Điểm cuối vị trí số (5) cách mép đường chuẩn 2,25m.

- Vị trí số (6): Xe ô tô BKS: 29B-xxxxx đỗ trên mặt đường, đầu xe hướng về H, đuôi xe hướng về Lào Cai. Đầu trục sau bên trái xe ô tô cách mép đường chuẩn 1,7m và cách điểm cuối vị trí số (5) là 5,2m. Đầu trục trước bên trái xe ô tô cách mép đường chuẩn 1,7m.

- Vị trí số (7): Bãi mảnh nhựa vỡ, nằm rải rác trên mặt đường, kích thước 4x5,3m. Tâm vị trí số (7) cách mép đường chuẩn 2,6m và cách đầu trục trước bên trái xe ô tô BKS: 29B-xxxxx là 2,7m.

- Vị trí số (8): Xe ô tô BKS: 19C-xxxxx kéo theo sơmi rơ-mooc BKS:

19R-xxxxx đỗ trên mặt đường, đầu xe ô tô hướng về H, đuôi xe ô tô hướng về Lào Cai. Đầu trục bánh trước bên trái xe ô tô BKS: 19C-xxxxx cách mép đường chuẩn 1,35m. Đầu trục bánh thứ ba phía bên trái từ trên xuống của xe ô tô đầu kéo cách mép đường chuẩn 1,3m. Đầu trục bánh phía sau cùng bên trái của sơmi rơ-mooc cách mép đường chuẩn 1,3m và cách tâm vị trí số (7) là 11m.

Kết quả khám phương tiện đối với xe ô tô BKS: 29B-xxxxx thể hiện:

- Toàn bộ kính chắn gió phía trước bị rạn vỡ, khung kính chắn gió phía trước bị móp méo biến dạng.

- Nắp cabin bị móp méo biến dạng đẩy từ trước về sau.

- Tai xe hai bên bị bóp méo biến dạng hướng từ trước về sau.

- Ba đờ sốc trước móp méo biến dạng, 1/2 phía trước bị bung rời khỏi xe, bề mặt ba đờ sốc có vết chà sát bám dính bụi đất và chất màu trắng hướng từ trước về sau, từ dưới lên trên, kích thước 110cm x 21cm.

- Hai đầu ba đờ sốc hai bên phía trước bị bung rời khỏi xe.

- Biển số phía trước bị bung rời khỏi xe.

- Xương đỡ đầu ba đờ sốc bị đẩy cong từ trước về sau.

- Dây du sắt xi phía trước hai bên bị cong vênh biến dạng.

- Hệ thống đèn phía trước bên trái bị bung rời khỏi xe, bên phải bị vỡ nát bung rời khỏi vị trí lắp đặt ban đầu còn liên kết với xe.

- Dàn nóng, két tubo, hộp cầu, ống dẫn nước, tiô dầu trợ lực, tiô điều hòa bị vỡ nát biến dạng, bị ép đẩy từ trước về sau.

- B nước rửa kính bị vỡ nát.

- Toàn bộ máy bị đẩy từ trước về sau, từ trên xuống dưới áp sát vào cabin xe, gioăng cao su, dây dẫn điện bị đứt dập nát.

- Trục các đăng bị bung rời khỏi vị trí ban đầu.

- Đầu nóc cabin bị đẩy từ trước về sau móp méo biến dạng, bên phải kích thước 70x40x40cm, bên trái kích thước 75x40x30cm.

- Gương chiếu hậu bên phải bị bung rời khỏi xe.

- Gương chiếu hậu bên trái bị bung rời khỏi vị trí lắp đặt.

- Cánh cửa bên phải bị vỡ kính chắn gió, móp méo biến dạng.

- Cánh cửa trái bị móp méo biến dạng.

- Túi khí vô lăng trong xe bị bung nổ.

- Toàn bộ táp lô trong xe bị vớ nát, biến dạng đẩy từ trước về sau.

- Trần xe cabin bị đẩy từ trước về sau.

- Hàng ghế bên lái bị xô đẩy từ trước về sau.

- Mặt táp lô có bám nhiều chất dịch màu nâu dạng giọt, kích thước 20x20cm.

- Các hàng ghế phía sau bị xô đẩy biến dạng.

- Mặt ghế lái táp lô, mặt sàn có nhiều mảnh kính vỡ vụn.

Kết quả khám phương tiện đối với xe ô tô đầu kéo BKS: 19C-xxxxx, kéo theo sơmi rơ-mooc BKS: 19R-xxxxx thể hiện:

- Phía dưới nắPùng sau rơ-mooc BKS: 19R-xxxxx có vết chà sát mất sơn bám dính nhiều mảnh kính vỡ vụn, kích thước 130cm x 18cm, điểm cao nhất cách mặt đất 157cm.

- Đáy thùng sau bị móp lõm biến dạng đẩy từ sau về trước bám dính nhiều mảnh kính vỡ vụn kích thước 218cm x 36cm.

- Đèn tín hiệu hai bên bị bung rời khỏi vị trí lắp đặt ban đầu.

- Thanh chắn bảo hiểm đuôi thùng bị gãy bung rời khỏi xe kích thước 100cm.

- Đèn báo đỗ bên trái bị đẩy hướng từ sau về trước, vỡ mặt đèn.

- Cụm dây điện đèn báo hãm bên trái mắc vào cụm đèn pha bên trái.

- Trên thanh dằng cầu sau có mặt ca-lăng nhãn hiệu FORD kích thước 85x20cm.

- Biển số phía đuôi xe bị đẩy cong từ sau về trước.

- Dè chắn bùn phía sau bên trái bị đẩy cong từ sau về trước.

- Thanh dằng cầu dưới phía sau bên phải có vết trượt màu đen, kích thước 23x4cm.

Ngày 30/11/2020, Cơ quan CSĐT - Công an huyện C đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 170 trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh P giám định nguyên nhân chết của chị Đặng Thị Kiều L.

Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 382/PC09-PY ngày 29/12/2020 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh P kết luận:

“1. Kết quả giám định chính:

- Trên cơ thể chị Đặng Thị Kiều L có các tổn thương sây sát, rách da.

- Vùng nách trái có vết rách da, sâu thấu khoang ngực trái, qua vết rách da có dịch màu nâu đỏ chảy ra. Thành ngực bên trái mất vững, gãy nhiều xương sườn bên trái.

- Gãy phức tạp xương đùi phải thành nhiều mảnh.

- Gia đình kiên quyết không giải phẫu tử thi.

* Nghiên cứu hồ sơ bệnh án:

- Chấn thương ngực, bụng: Đụng dập nhu mô phổi hai bên. Gãy các xương sườn 3, 4, 5, 6, 7, 8 bên trái. Tràn dịch khoang màng phổi hai bên. Vỡ gan trái Đ 2, 3, dịch ổ bụng.

+ Gãy xương đùi phải.

2. Nguyên nhân chết:

Do gia đình kiên quyết không giải phẫu tử thi nên không đủ cơ sở kết luận chính xác nguyên nhân chết của chị Đặng Thị Kiều L. Nhận định nguyên nhân chết của chị Đặng Thị Kiều L là do đa chấn thương.” Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 44/TgT ngày 09/3/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Y đối với chị Hoàng Thu Tr kết luận:

- Gẫy cổ xương đùi phải còn phương tiện kết hợp xương.

- Gẫy xương đùi phải còn phương tiện kết hợp xương.

- Gẫy xương đùi trái còn phương tiện kết hợp xương.

- Vỡ xương bánh chè bên phải.

- Tại mặt trước trên đùi phải có 01 vết sẹo kích thước 10cm x 01cm.

- Tại mặt trước ngoài đùi phải có 01 vết sẹo kích thước 21cm x 0,5cm, kèm theo sẹo dẫn lưu vị trí 1/3 trên ngoài đùi phải KT 1,5 x 0,3 cm.

- Tại bờ trước dưới xương bánh chè bên phải có 01 vết sẹo kích thước 1,5cm x 0,4cm.

- Tại mặt trước ngoài đùi trái có 01 vết sẹo kích thước 26cm x 0,8cm.

Căn cứ Thông tư số 22/2019/TT-BYT, ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần.

Căn cứ vào kết quả khám giám định đối với: Hoàng Thu Tr được áp dụng theo phương pháp cộng tại thông tư.

Kết luận: “Tỷ lệ phần trăm sức khoẻ bị tổn hại do thương tích gây nên của Hoàng Thu Tr hiện tại là: 65% (sáu mươi lăm phần trăm).” Đối với chị Nguyễn Thu T, anh Nguyễn Xuân H, cháu Nguyễn Văn L, chị Nguyễn Huyền T1, chị Tô P và chị Nguyễn Th V, các bị hại kiên quyết từ chối giám định thương tích của bản thân.

Tại Kết luận định giá tài sản số 01 ngày 23/01/2021, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C kết luận: “Giá trị thiệt hại của xe ô tô khách BKS: 29B – xxxxx là 127.950.000 đồng. Số tiền bằng chữ: Một trăm hai mươi bảy triệu chín trăm năm mươi nghìn đồng.” Tại Biên bản kiểm tra nồng độ cồn ngày 29/11/2020 đối với Đào Mạnh T và anh Trần Tiến Đ thể hiện: kiểm tra trong hơi thở của Đào Mạnh T và anh Trần Tiến Đ thu được kết quả 0,000 miligam/ 1 lít khí thở.

Quá trình giải quyết vụ án, Cơ quan CSĐT- Công an huyện C đã tạm giữ của bị can Đào Mạnh T 01 (một) giấy phép lái xe số 15001958xxxxx, hạng E do Sở Giao thông vận tải tỉnh Y cấp ngày 25/6/2019 mang tên Đào Mạnh T. Tuy nhiên, qua đối chiếu, kiểm tra, nghi ngờ giấy phép lái xe trên là giả. Ngày 21/4/2021, Cơ quan CSĐT - Công an huyện C đã gửi công văn đến Sở Giao thông vận tải tỉnh Y xác M: Sở Giao thông vận tải tỉnh Y có cấp giấy phép lái xe trên cho bị can Đào Mạnh T hay không.

Tại công văn số 572/SGTVT-QLVT-PT&NL ngày 22/4/2021, Sở Giao thông vận tải tỉnh Y trả lời: Tính đến ngày 22/4/2021, Sở Giao thông vận tải tỉnh Y chưa cấp bất cứ giấy phép lái xe cơ giới đường bộ nào cho Đào Mạnh T. Mặt khác, từ năm 2012 đến nay, Sở Giao thông vận tải tỉnh Y không tổ chức các lớPi sát hạch cấp giấy phép lái xe hạng D và hạng E. Ngoài ra, trên hệ thống dữ liệu quản lý giấy phép lái xe Trung ương, không tồn tại giấy phép lái xe hạng E số 15001958xxxxx do cơ quan có thẩm quyền cấp cho Đào Mạnh T, sinh ngày: 25/8/1989, cư trú tại thôn Đông Thịnh xã Giới Phiên, TP Y, tỉnh Y, ngày cấp 25/6/2019, có giá trị đến 25/6/2024.

Tại Kết luận giám định số 571/KLGĐ-PC09 ngày 05/5/2021, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh P kết luận: “Giấy phép lái xe” số 15001958xxxxx, họ tên: Đào Mạnh T, ngày sinh: 25/8/1989, nơi cư trú: Xã Phúc Lộc – TP. Y – T. Y, đề cấp ngày 25/6/2019 (mẫu cần giám định ký hiệu A) là giả.” Tại Cơ quan điều tra, Đào Mạnh T khai nhận: Bản thân T chỉ được cấp giấy phép lái xe hạng A1 và hạng B2. Vì muốn xin làm lái xe ô tô chở khách từ 10 chỗ ngồi trở lên nên cuối năm 2019, T đã đặt mua 01 (một) giấy phép lái xe hạng E từ một tài khoản trên mạng xã hội “Facebook” nhằm qua mặt cơ quan chức năng khi tham gia giao thông. Sau khoảng 15 ngày, T nhận được “Giấy phép lái xe” giả gửi đến qua đường bưu chính và thanh toán tiền. Hiện nay, T không còn lưu thông tin cũng không nhớ thông tin gì liên quan đến tài khoản “facebook” đã bán “Giấy phép lái xe” giả cho T. Khi đi xin làm lái xe thuê cho anh Đặng Thanh B, T không nói với anh B là T sử dụng giấy phép lái xe giả. Do vậy anh B không biết T sử dụng giấy phép lái xe giả nên mới giao chiếc xe ô tô chở khách loại limousin BKS: 29B - xxxxx cho T làm lái xe chạy tuyến thành phố Y đi thành phố H và ngược lại như đã nêu trên.

Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT- Công an huyện C đã tạm giữ vật chứng, đồ vật, tài liệu sau:

- 01 (một) xe ô tô đầu kéo BKS: 19C-xxxxx; Nhãn hiệu: TXHTC; Loại xe: xe đầu kéo, kéo theo sơmi rơ moóc BKS: 19R-xxxxx; Nhãn hiệu: CIMC, trên thùng có chở hàng quặng sắt;

- 01 (một) giấy biên nhận thế chấp xe ô tô BKS: 19C-xxxxx của Ngân hàng công thương Việt Nam ngày 21/8/2020 và 01 (một) bản phô tô giấy Đăng ký xe ô tô BKS: 19C-xxxxx;

- 01 (một) giấy biên nhận thế chấp sơmi rơ moóc BKS: 19R-xxxxx của Ngân hàng công thương Việt Nam ngày 11/8/2020 và 01 (một) bản phô tô giấy Đăng ký sơmi rơ moóc BKS: 19R-xxxxx;

- 01 (một) Giấy chứng nhận kiểm định số KD2775700 cấp cho xe ô tô đầu kéo BKS: 19C-xxxxx có thời hạn đến hết ngày 20/7/2021;

- 01 (một) Giấy chứng nhận kiểm định số KD2775478 cấp cho sơmi rơ moóc BKS: 19R-xxxxx có thời hạn đến hết ngày 20/7/2021;

- 01 (một) Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô số BB200042413 cho xe ô tô 19C-xxxxx, tên chủ xe là Công ty Cổ phần Đ1 P;

- 01 (một) Giấy phép lái xe ô tô số 25006500xxxx cấp ngày 24/9/2020 mang tên Trần Tiến Đ;

- 01 (một) xe ô tô BKS: 29B – xxxxx, nhãn hiệu: FORD; màu sơn: Đen; số khung: TGMCGSR51783, số máy: RATOPQ4D243H (bị hư hỏng do tai nạn giao thông);

- 01 giấy chứng nhận kiểm định số: KD 3291025, biển số đăng ký: 29B – xxxxx;

- 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô số: 006xxxx, tên chủ xe Đặng Thanh B, biển số xe 29B – xxxxx;

- 01 giấy chứng nhận bảo hiểm kết hợp xe ô tô số: 050035072/19, chủ xe Đặng Thanh B, biển số đăng ký 29B – xxxxx;

- 01 bản sao chứng nhận đăng ký xe ô tô số: 598xxx, tên chủ xe Đặng Thanh B, biển số đăng ký: 29B – xxxxx;

- 01 giấy biên nhận thế chấp số: 0806/BIDV.MĐ-NCT-GBN ngày 08/6/2020;

- 01 giấy phép lái xe số 15001958xxxxx, hạng E do sở giao thông vận tải tỉnh Y cấp ngày 25/6/2019 mang tên Đào Mạnh T.

Về xử lý vật chứng, đồ vật, tài liệu:

Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT – Công an huyện C đã làm rõ:

- Chiếc xe ô tô BKS: 29B-xxxxx đăng ký mang tên anh Đặng Thanh B, sinh năm: 1979 ở T, T, H.

- Chiếc xe ô tô đầu kéo BKS: 19C-xxxxx kéo theo sơmi rơ-mooc BKS: 19R-xxxxx đăng ký mang tên Công ty Cổ phần Đ, địa chỉ: Tổ 8, khu 2, phường V, thành phố V, tỉnh P. Anh Trần Tiến Đ là lái xe cho Công ty Cổ phần Đ, được giao điều khiển xe ô tô kéo theo sơmi rơ-mooc trên. Tiến hành cân tải trọng xe ô tô đầu kéo BKS: 19C-xxxxx kéo theo sơmi rơ-mooc BKS: 19R- xxxxx, xe chở hàng không vượt quá tải trọng cho phép, hàng hoá có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.

Ngày 04/12/2021, Cơ quan CSĐT – Công an huyện C đã trả cho anh Phạm Văn Đ1 (là đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phần Đ):

- 01 (một) xe ô tô đầu kéo BKS: 19C-xxxxx; Nhãn hiệu: TXHTC; Loại xe: xe đầu kéo, kéo theo sơmi rơ moóc BKS: 19R-xxxxx; Nhãn hiệu: CIMC, trên thùng có chở hàng quặng sắt;

- 01 (một) giấy biên nhận thế chấp xe ô tô BKS: 19C-xxxxx của Ngân hàng công thương Việt Nam ngày 21/8/2020 và 01 (một) bản phô tô giấy Đăng ký xe ô tô BKS: 19C-xxxxx;

- 01 (một) giấy biên nhận thế chấp sơmi rơ moóc BKS: 19R-xxxxx của Ngân hàng công thương Việt Nam ngày 11/8/2020 và 01 (một) bản phô tô giấy Đăng ký sơmi rơ moóc BKS: 19R-xxxxx;

- 01 (một) Giấy chứng nhận kiểm định số KD2775700 cấp cho xe ô tô đầu kéo BKS: 19C-xxxxx có thời hạn đến hết ngày 20/7/2021;

- 01 (một) Giấy chứng nhận kiểm định số KD2775478 cấp cho sơmi rơ moóc BKS: 19R-xxxxx có thời hạn đến hết ngày 20/7/2021;

- 01 (một) Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô số BB200042413 cho xe ô tô 19C-xxxxx, tên chủ xe là Công ty Cổ phần Đ.

Cùng ngày, Cơ quan CSĐT- Công an huyện C đã trả cho anh Trần Tiến Độ: 01 (một) Giấy phép lái xe ô tô số 25006500xxxx cấp ngày 24/9/2020 mang tên Trần Tiến Độ.

Ngày 26/01/2021, Cơ quan CSĐT- Công an huyện C đã trả cho anh Đặng Thanh B:

- 01 (một) xe ô tô BKS: 29B- xxxxx, nhãn hiệu: FORD; màu sơn: Đen; số khung: TGMCGSR51783, số máy: RATOPQ4D243H (bị hư hỏng do tai nạn giao thông);

- 01 giấy chứng nhận kiểm định số: KD 3291025, biển số đăng ký: 29B- xxxxx;

- 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô số: 006xxxx, tên chủ xe Đặng Thanh B, biển số xe 29B- xxxxx;

- 01 giấy chứng nhận bảo hiểm kết hợp xe ô tô số: 050035072/19, chủ xe Đặng Thanh B, biển số đăng ký 29B- xxxxx;

- 01 bản sao chứng nhận đăng ký xe ô tô số: 598xxx, tên chủ xe Đặng Thanh B, biển số đăng ký: 29B- xxxxx;

- 01 giấy biên nhận thế chấp số: 0806/BIDV.MĐ-NCT-GBN ngày 08/6/2020.

Về trách nhiệm dân sự: Đào Mạnh T cùng chủ xe đã bồi thường cho gia đình chị Đặng Thị Kiều L và chị Nguyễn Thu Tr (là con gái chị L) 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng); bồi thường cho chị Hoàng Thu T số tiền 160.000.000 đồng (một trăm sáu mươi triệu đồng) và cháu Nguyễn Văn L số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng); bồi thường cho chị Nguyễn Huyền T1 90.000.000 đồng (chín mươi triệu đồng); bồi thường cho anh Nguyễn Xuân H số tiền 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng); bồi thường cho chị Tô P số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng). Các bị hại đã nhận đủ số tiền trên, không có yêu cầu, đề nghị gì khác.

Chị Nguyễn Th V bị thương nhẹ, không có yêu cầu, đề nghị gì, có đơn từ chối giám định thương tích.

Xe ô tô đầu kéo BKS: 19C-xxxxx kéo theo sơmi rơ-mooc BKS: 19R- xxxxx bị hư hỏng nhẹ, Công ty Cổ phần Đ không có yêu cầu, đề nghị gì.

Đối với hư hỏng, thiệt hại của xe ô tô 29B-xxxxx, anh Đặng Thanh B (chủ xe) không có yêu cầu, đề nghị gì.

Tại bản cáo trạng số 57/CT-VKS, ngày 30/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh P đã quyết định truy tố Đào Mạnh T về tội “V phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố bị cáo Đào Mạnh T phạm tội “V phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Căn cứ: điểm a khoản 2 Điều 260; Điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt Đào Mạnh T từ 42 đến 48 tháng tù về tội “V phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Căn cứ: khoản 1 Điều 341; Điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt Đào Mạnh T từ 09 đến 12 tháng tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Căn cứ: Điều 55 của Bộ luật hình sự, buộc bị cáo Đào Mạnh T phải chấp hành hình phạt chung của 02 tội là từ 51 đến 60 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Đào Mạnh T.

2 .Về trách nhiệm dân sự:

Căn cứ: Điều 48 của Bộ luật hình sự Xác nhận Đào Mạnh T cùng chủ xe đã bồi thường cho gia đình chị Đặng Thị Kiều L và chị Nguyễn Thu Tr (là con gái chị L) 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng); bồi thường cho chị Hoàng Thu T số tiền 160.000.000 đồng (một trăm sáu mươi triệu đồng) và cháu Nguyễn Văn L số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng); bồi thường cho chị Nguyễn Huyền T1 90.000.000 đồng (chín mươi triệu đồng); bồi thường cho anh Nguyễn Xuân H số tiền 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng); bồi thường cho chị Tô P số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) 3. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 và điểm a, b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu để tiêu hủy 01 giấy phép lái xe số 15001958xxxxx, hạng E do sở giao thông vận tải tỉnh Y cấp ngày 25/6/2019 mang tên Đào Mạnh T.

- Xác nhận cơ quan CSĐT công an huyện C đã giao trả cho:

Anh Phạm Văn Đ1 (là đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phần Đ): 01 (một) xe ô tô đầu kéo BKS: 19C-xxxxx; Nhãn hiệu: TXHTC; Loại xe: xe đầu kéo, kéo theo sơmi rơ moóc BKS: 19R-xxxxx; Nhãn hiệu: CIMC, trên thùng có chở hàng quặng sắt; 01 (một) giấy biên nhận thế chấp xe ô tô BKS: 19C-xxxxx của Ngân hàng công thương Việt Nam ngày 21/8/2020 và 01 (một) bản phô tô giấy Đăng ký xe ô tô BKS: 19C-xxxxx; 01 (một) giấy biên nhận thế chấp sơmi rơ moóc BKS: 19R-xxxxx của Ngân hàng công thương Việt Nam ngày 11/8/2020 và 01 (một) bản phô tô giấy Đăng ký sơmi rơ moóc BKS: 19R- xxxxx; 01 (một) Giấy chứng nhận kiểm định số KD2775700 cấp cho xe ô tô đầu kéo BKS: 19C-xxxxx có thời hạn đến hết ngày 20/7/2021; 01 (một) Giấy chứng nhận kiểm định số KD2775478 cấp cho sơmi rơ moóc BKS: 19R-xxxxx có thời hạn đến hết ngày 20/7/2021; 01 (một) Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô số BB200042413 cho xe ô tô 19C- xxxxx, tên chủ xe là Công ty Cổ phần Đ.

Anh Trần Tiến Độ: 01 (một) Giấy phép lái xe ô tô số 25006500xxxx cấp ngày 24/9/2020 mang tên Trần Tiến Đ.

Anh Đặng Thanh B: 01 (một) xe ô tô BKS: 29B- xxxxx, nhãn hiệu: FORD; màu sơn: Đen; số khung: TGMCGSR51783, số máy: RATOPQ4D243H (bị hư hỏng do tai nạn giao thông); 01 giấy chứng nhận kiểm định số: KD 3291025, biển số đăng ký: 29B- xxxxx; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô số: 006xxxx, tên chủ xe Đặng Thanh B, biển số xe 29B- xxxxx; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm kết hợp xe ô tô số: 050035072/19, chủ xe Đặng Thanh B, biển số đăng ký 29B- xxxxx; 01 bản sao chứng nhận đăng ký xe ô tô số: 598xxx, tên chủ xe Đặng Thanh B, biển số đăng ký: 29B- xxxxx; 01 giấy biên nhận thế chấp số: 0806/BIDV.MĐ-NCT-GBN ngày 08/6/2020.

4. Về án phí: Bị cáo Đào Mạnh T phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận và có lời nói sau cùng là rất ân hận về hành V của bản thân, mong có cơ hội sửa chữa sai lầm và cam đoan không bao giờ V phạm pháp luật hoặc phạm tội nữa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng hình sự: Các quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, hành V tố tụng của điều tra viên trong quá trình điều tra vụ án; quyết định tố tụng của Viện kiểm sát và hành V tố tụng của Kiểm sát viên trong giai đoạn truy tố là đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2]. Về căn cứ buộc tội:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với lời khai của bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; kết quả khám nghiệm hiện trường, phương tiện và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, nên có đủ cơ sở để kết luận:

Cuối năm 2019, Đào Mạnh T lên mạng xã hội Facebook mua của một tài khoản không rõ tên, địa chỉ 01 Giấy phép lái xe hạng E giả và dùng để xin làm lái xe thuê đối với loại xe ô tô chở người trên 10 chỗ ngồi.

Khoảng 14 giờ 45 phút ngày 29/11/2020, Đào Mạnh T điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 29B-607.15 (Loại xe chở người 10 chỗ ngồi), trên xe có T và 10 hành khách đi đến km 82+800 cao tốc Nội Bài- Lào Cai thuộc địa phận khu Đ 2, xã M, huyện C, tỉnh P. Do không chú ý quan sát, không giữ khoảng cách an toàn với xe chạy liền trước nên xe ô tô do T điều khiển đã đâm vào phía sau xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 19C-xxxxx kéo theo sơ mi rơ mooc biển kiểm soát 19R-xxxxx do anh Trần Tiến Đ điều khiển đi cùng chiều phía trước.

Hậu quả: hành khách trên xe ô tô là chị Đặng Thị Kiều L tử vong; chị Hoàng Thu Tr bị tổn hại 65% sức khỏe; các anh chị Tô P, Nguyễn Thu T, Nguyễn Huyền T1, Nguyễn Th V, Nguyễn Xuân H và cháu Nguyễn Văn L bị thương. Ôtô biển kiểm soát 29B-xxxxx bị hỏng, thiệt hại là 127.950.000đồng; đuôi sơ mi rơ mooc biển kiểm soát 19R-xxxxx bị hỏng nhẹ.

Hành V điều khiển xe cơ giới không có giấy phép lái xe theo quy định và không giữ một khoảng cách an toàn đối với xe chạy liền phía trước nêu trên của bị cáo Đào Mạnh T đã V phạm quy định tại khoản 9 Điều 8, khoản 1 Điều 12 của Luật giao thông đường bộ và đủ yếu tố cấu thành tội “V phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự.

Hành V của bị cáo Đào Mạnh T sử dụng Giấy phép lái xe hạng E giả nêu trên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 của Bộ luật hình sự.

Do vậy, Quyết định truy tố của Viện kiểm sát đối với bị cáo Đào Mạnh T là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Về tính chất hành V phạm tội: Hành vi của bị cáo T đã xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác và xâm hại đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức trong hoạt động quản lý hành chính về lĩnh vực giao thông đường bộ.

[4]. Về nhân thân: Bị cáo không có tiền sự, tiền án.

[5]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Đối với tội “V phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng và được 02 hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự là: tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự là: bị hại, người đại diện của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đối với tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”, bị cáo T không phải chịu tình tiết tăng nặng và được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự là: Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, trên cơ sở phục vụ công tác đấu tranh chống, phòng ngừa chung tội phạm trên địa bàn và tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội sửa chữa sai lầm, cần chấp nhận đề nghị của đại diện viện kiểm sát là áp dụng hình phạt tù với mức đủ để bị cáo tỉnh ngộ, sớm cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 260 của Bộ luật hình sự, thì người phạm tội có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Tuy nhiên, kết quả xác M của cơ quan điều tra và lời trình bày tại phiên tòa cho thấy hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, ngoài thu nhập từ nghề lái xe ra, bị cáo không có thu nhập nào khác và bị cáo đã bị áp dụng hình phạt tù nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo T.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và chủ xe ô tô biển kiểm soát 29B- xxxxx là anh Đặng Thanh B đã cùng nhau thỏa thuận bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe cho các bại hại nên cần xác nhận.

Đối với thiệt hại về tài sản của xe ô tô biển kiểm soát 29B-xxxxx và sơ mi rơ mooc biển kiểm soát 19R-xxxxx, do chủ sở hữu tài sản bị thiệt hại không yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

[9] Về xử lý vật chứng:

Giấp phép lái xe hạng E giả đã thu giữ, cần tịch thu để tiêu hủy.

Giấy phép lái xe mang tên Trần Tiến Đ; xe ô tô biển kiểm soát 29B- xxxxx; xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 19C-xxxxx; Sơ mi rơ mooc biển kiểm soát 19R-xxxxx cùng giấy tờ kèm theo mà Cơ quan điều tra đã giao trả cho các chủ sở hữu hợp pháp, cần xác nhận.

[10] Về án phí: Bị cáo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự:

Căn cứ: điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Đào Mạnh T phạm tội “V phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” .

Xử phạt bị cáo Đào Mạnh T 42 (Bốn mươi hai) tháng tù.

Căn cứ: khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Đào Mạnh T phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Xử phạt bị cáo Đào Mạnh T 09 (Chín) tháng tù.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 55 của Bộ luật hình sự Buộc bị cáo Đào Mạnh T phải chấp hành hình phạt chung của 02 tội là 51 (Năm mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo Đào Mạnh T đi chấp hành án.

2.Về trách nhiệm dân sự:

Căn cứ khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự Xác nhận bị cáo Đào Mạnh T cùng anh Đặng Thanh B đã thỏa thuận bồi thường thiệt hại về tính mạng cho chị Đặng Thị Kiều L và thiệt hại về sức khỏe cho con gái chị L là Nguyễn Thu Tr số tiền tổng cộng là 200.000.000đồng; bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho: chị Hoàng Thu T 160.000.000đồng, cháu Nguyễn Văn L 10.000.000đồng, chị Nguyễn Huyền T1 90.000.000đồng, anh Nguyễn Xuân H 30.000.000đồng, chị Tô P 2.000.000đồng.

3.Về xử lý vật chứng:

Căn cứ vào: điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 và điểm a, b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu để tiêu hủy 01 giấy phép lái xe số 15001958xxxxx, hạng E do sở giao thông vận tải tỉnh Y cấp ngày 25/6/2019 mang tên Đào Mạnh T (Theo biên bản giao vật chứng đến Chi cục thi hành án dân sự huyện C ngày 06/12/2021).

- Xác nhận cơ quan CSĐT công an huyện C đã giao trả cho:

+ Anh Phạm Văn Đ1 (là đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phần Đ):

01 (một) xe ô tô đầu kéo BKS: 19C-xxxxx; Nhãn hiệu: TXHTC; Loại xe: xe đầu kéo, kéo theo sơmi rơ moóc BKS: 19R-xxxxx; Nhãn hiệu: CIMC, trên thùng có chở hàng quặng sắt; 01 (một) giấy biên nhận thế chấp xe ô tô BKS:

19C-xxxxx của Ngân hàng công thương Việt Nam ngày 21/8/2020 và 01 (một) bản phô tô giấy Đăng ký xe ô tô BKS: 19C-xxxxx; 01 (một) giấy biên nhận thế chấp sơmi rơ moóc BKS: 19R-xxxxx của Ngân hàng công thương Việt Nam ngày 11/8/2020 và 01 (một) bản phô tô giấy Đăng ký sơmi rơ moóc BKS: 19R- xxxxx; 01 (một) Giấy chứng nhận kiểm định số KD2775700 cấp cho xe ô tô đầu kéo BKS: 19C-xxxxx có thời hạn đến hết ngày 20/7/2021; 01 (một) Giấy chứng nhận kiểm định số KD2775478 cấp cho sơmi rơ moóc BKS: 19R-xxxxx có thời hạn đến hết ngày 20/7/2021; 01 (một) Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô số BB200042413 cho xe ô tô 19C- xxxxx, tên chủ xe là Công ty Cổ phần Đ1 P.

+ Anh Trần Tiến Đ: 01 (một) Giấy phép lái xe ô tô số 25006500xxxx cấp ngày 24/9/2020 mang tên Trần Tiến Đ.

+ Anh Đặng Thanh B: 01 (một) xe ô tô BKS: 29B- xxxxx, nhãn hiệu: FORD; màu sơn: Đen; số khung: TGMCGSR51783, số máy: RATOPQ4D243H (bị hư hỏng do tai nạn giao thông); 01 giấy chứng nhận kiểm định số: KD 3291025, biển số đăng ký: 29B- xxxxx; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô số: 006xxxx, tên chủ xe Đặng Thanh B, biển số xe 29B- xxxxx; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm kết hợp xe ô tô số: 050035072/19, chủ xe Đặng Thanh B, biển số đăng ký 29B- xxxxx; 01 bản sao chứng nhận đăng ký xe ô tô số: 598xxx, tên chủ xe Đặng Thanh B, biển số đăng ký: 29B- xxxxx; 01 giấy biên nhận thế chấp số: 0806/BIDV.MĐ-NCT-GBN ngày 08/6/2020.

4. Về án phí:

Căn cứ vào: khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo Đào Mạnh T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo đến Tòa án nhân dân tỉnh P để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Bị hại, người đại diện của bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được giao cho người bị hại hợp lệ hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

56
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 16/2021/HS-ST

Số hiệu:16/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Khê - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về