Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 04/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 04/2023/HS-PT NGÀY 11/01/2023 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 11 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 156/2022/TLPT-HS ngày 14 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo Nguyễn Văn C, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án Hình sự sơ thẩm số 72/2022/HSST ngày 20/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.

Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Văn C, sinh năm 1970 tại Thái Bình; Nơi cư trú: thôn Đ, xã N, huyện T, tỉnh Thái Bình; Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn B (đã chết) và bà Nguyễn Thị K; vợ: Phạm Thị P; Có 03 con, con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2014.

Tiền sự: Không; Tiền án: Không.

Nhân thân: Năm 1990 tham gia nghĩa vụ quân sự đến năm 1992 xuất ngũ về địa phương.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” - Có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Anh Vũ Văn H, sinh năm 1976 (đã chết); Địa chỉ: Thôn H1, xã N1, huyện T, tỉnh Thái Bình.

- Người đại diện hợp pháp của bị hại:

+ Bà Vũ Thị T1, sinh năm 1950 (mẹ anh H);

+ Chị Trần Thị L, sinh năm 1988 (vợ anh H);

Đu trú tại: Thôn H1, xã N1, huyện T, tỉnh Thái Bình.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Vũ Thị T1: Chị Trần Thị L - sinh năm 1988, trú tại: Thôn H1, xã N1, huyện T, tỉnh Thái Bình.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Cháu Vũ Quang M, sinh năm 2006 (là con của anh H);

+ Cháu Vũ Thị Ngọc A, sinh năm 2011 (là con của anh H);

+ Cháu Vũ Thùy L1, sinh năm 2012 (là con của anh H).

Đều trú tại: Thôn H1, xã N1, huyện T, tỉnh Thái Bình Người đại diện hợp pháp của cháu M, A và L1: Chị Trần Thị L, sinh năm 1988 (là mẹ đẻ của các cháu), trú tại: Thôn H1, xã N1, huyện T, tỉnh Thái Bình. (Chị L vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn C không có giấy phép lái xe mô tô hợp lệ. Khoảng 18 giờ 45 phút ngày 16/4/2022, sau khi ăn cơm tối tại nhà, Nguyễn Văn C điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Dream II màu nâu biển kiểm soát 17F6-ZZZZ đi từ nhà để đến công ty sứ H2 có trụ sở tại khu công nghiệp Tiền Hải để làm việc. Khi đi đến đoạn đường ĐH30 thuộc địa phận thôn R, xã T2, huyện T, do xe sắp hết xăng nên C dự định rẽ vào cây xăng ở phía bên trái đường theo chiều đi để đổ xăng. Quan sát thấy phía trước cách khoảng 30 - 40m có xe mô tô nhãn hiệu Sirius màu đỏ đen, biển kiểm soát 17L4-YYYY do anh Vũ Văn H điều khiển đi hướng ngược chiều, nghĩ khoảng cách giữa hai xe còn xa, khó xảy ra va chạm nên C giảm tốc độ, bật đèn xi nhan trái và điều khiển xe chuyển hướng sang bên trái đường theo chiều đi của mình để vào cây xăng. Khi xe của C di chuyển đến giữa phần đường ngược chiều thì giỏ đựng hàng phía trước và bánh trước bên phải xe của C va chạm với cánh yếm bên trái và càng trước bên trái, mặt ngoài ống giảm xóc bên trái xe mô tô của anh H làm xe của anh H đổ rê vào vệ đường bên phải theo chiều đi của anh H, xe của C đổ tại chỗ. C và anh H ngã ra đường. Hậu quả anh H bị đa chấn thương vùng đầu và toàn thân được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa huyện Tiền Hải đến 19 giờ 10 phút cùng ngày anh H chết. Nguyễn Văn C cũng bị thương, được đưa đi cấp cứu tại bệnh viên đa khoa tỉnh Thái Bình.

Tại bản kết luận giám định pháp y tử thi số 84/PY/PC09 ngày 26/4/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Anh Vũ Văn H bị đa chấn thương vùng đầu và toàn thân do tai nạn giao thông làm vỡ phức tạp xương sọ vùng chẩm trái, xương vỡ lún vào trong, dập não. Nạn nhân chết do chấn thương sọ não.

Gia đình bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho đại diện hợp pháp của bị hại số tiền 70.000.000 đồng. Đại diện hợp pháp của bị hại có đơn đề nghị miễn giảm trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Bản án hình sự sơ thẩm số 72/2022/HSST ngày 20/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Nguyễn Văn C 04 năm 03 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày ngày chấp hành án. Bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 03/10/2022, bị cáo C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Nguyễn Văn C thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung án sơ thẩm đã quy kết, thể hiện thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo C đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo được hưởng án treo với lý do: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa từng vi phạm pháp luật, do chủ quan trong lúc tham gia giao thông nên đã xảy ra tai nạn ngoài ý muốn; Sau tại nạn, bị cáo cũng bị thương tích nặng, đến nay còn để lại nhiều di chứng, ảnh hưởng đến sức khỏe; Quá trình điều tra và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối hận, đã tác động tới gia đình để bồi thường cho gia đình bị hại; Gia đình bị cáo rất khó khăn, có giấy chứng nhận là hộ nghèo, mẹ bị cáo trên 80 tuổi bị tai biến do đột quỵ, sức khỏe yếu, hiện bị cáo là lao động chính nuôi dưỡng 3 con nhỏ và chăm sóc mẹ già.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình sau khi phân tích toàn bộ nội dung vụ án, xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân cũng như nội dung kháng cáo của bị cáo, đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tô tụng Hình sự, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo về hình phạt, sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ cho bị cáo từ 06 đến 09 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn C làm và gửi đến Tòa án trong thời hạn luật định là hợp lệ, được chấp nhận xem xét theo trình tự xét xử phúc thẩm.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn C: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tại giai đoạn sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ cơ quan điều tra đã thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án.

Vì vậy, có đủ căn cứ xác định: Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 16/4/2022 Nguyễn Văn C điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Dream II màu nâu biển kiểm soát 17F6-ZZZZ đi hướng từ xã N đi Thị trấn T. Khi đi đến đường ĐH30 thuộc địa phận thôn R, xã T2, huyện T, C điều khiển xe chuyển hướng sang đường, do không nhường đường cho xe đi ngược chiều, không đảm bảo an toàn khi chuyển hướng xe nên giỏ đựng hàng phía trước và bánh trước bên phải xe mô tô của C điều khiển đã va chạm với cánh yếm bên trái và càng trước bên trái, mặt ngoài ống giảm xóc bên trái xe mô tô của anh Vũ Văn H điều khiển, hậu quả làm hai xe đổ ra đường, anh H bị thương được đưa đi cấp cứu đến 19h10 cùng ngày thì tử vong tại bệnh viện đa khoa huyện Tiền Hải do chấn thương sọ não. Bị cáo cũng bị thương được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện đa khoa tỉnh Thái Bình. Tại thời điểm gây ra tai nạn giao thông, bị cáo không có giấy phép lái xe mô to theo quy định, trong hơi thở có nồng độ cồn là 0,861miligam/1 lít khí thở, vượt quá mức quy định.

Do đó Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Văn C về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

“Điều 260: Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ:

1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết người;

b, Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe cho 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;

b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác;

c) Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn; d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông; đ) Làm chết 02 người;

…………………………………………………………… 5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”

[3] Xét nội dung kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn C:

- Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm an toàn, trật tự công cộng là khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ và gây hậu quả làm anh Vũ Văn H bị chết.

- Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét tính chất mức độ phạm tội của bị cáo, đánh giá về nhân thân và xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào; bị cáo là người có nhân thân tốt, đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, chưa có tiền án tiền sự, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ thái độ ăn năn hối hận về hành vi phạm tội, bị cáo đã tác động tới gia đình để bồi thường khắc phục hậu quả cho đại diện hợp pháp của bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại có đơn đề nghị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Vì vậy đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự là đúng pháp luật.

Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo mức án 04 (bốn) năm 03 (ba) tháng tù là nghiêm khắc.

Sau khi bị cáo có kháng cáo, đại diện hợp pháp của bị hại tiếp tục có đơn đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, để tạo điều kiện cho bị cáo nhanh chóng trở về hòa nhập xã hội, tham gia lao động, sản xuất, chăm lo, nuôi dạy 3 con nhỏ và phụng dưỡng mẹ già trên 80 tuổi.

Vì vậy, cần áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự: Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo về việc xin hưởng án treo.

[4] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo được chấp nhận một phần nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn C. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 72/2022/HSST ngày 20 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình về hình phạt đối với bị cáo:

Áp dụng điểm a, điểm b khoản 2 Điều 260, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 03 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án - về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

[2] Về án phí: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Văn C không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án 11/01/2023./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 04/2023/HS-PT

Số hiệu:04/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về