TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH B
BẢN ÁN 03/2022/HS-PT NGÀY 24/02/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 24 tháng 02 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân tỉnh B xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 03/2022/TLPT-HS ngày 07 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo Phạm Mạnh P do có kháng cáo của người đại diện hợp pháp cho bị hại Nông Thị T đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2021/HS-ST ngày 30 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh B.
* Bị cáo: Phạm Mạnh P (tên gọi khác: không), sinh ngày 24 tháng 7 năm 1974; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ 2, phường Đ, thành phố B, tỉnh B; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn L (đã chết) và bà H (đã chết); có vợ: H và 02 con (con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2012); tiền án: 02 (tại bản án số 73/2015/HSST ngày 23/9/2015 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh B xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy, tại bản án số 17/HS-ST ngày 15/4/2004 của Tòa án nhân dân tỉnh B xử phạt 24 tháng tù giam về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích); tiền sự: Không.
* Bị hại: Bà Nông Thị T, sinh năm 1962. (đã chết).
* Người đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Nông Quốc D – sinh năm 1960.
Trú tại: Tổ 10, phường N, thành phố B, tỉnh B. Có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà H, sinh năm 1974. Trú tại: Tổ 2, phường Đ, thanh phố B, tỉnh B. Vắng mặt tại phiên tòa.
Những người tham gia tố tụng khác không liên quan đến kháng cáo: Tòa án không triệu tập.
NHẬN THẤY
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 14 giờ ngày 16/3/2021, Phạm Mạnh P chuẩn bị mang hàng đồ tang lễ từ nhà đi giao tại huyện C, tỉnh B thì thấy chiếc xe ôtô nhãn hiệu Kia Morning BKS 20D - 006.53 do bà H (là vợ của Phong) đứng tên mua của anh Ngô Sỹ Thanh, sinh năm 1985, trú tại tổ 2, phường Đ, thành phố B vào tháng 4/2020 để nhờ người lái phục vụ việc giao hàng kinh doanh (gia đình không có ai có giấy phép lái xe ôtô), đang để tại sân nhà Phong và chị Hoa không có ở nhà nên Phong đã nảy sinh ý định lái chiếc xe ôtô trên để đi giao hàng. Phong đã tự ý lấy chìa khóa xe để ở tủ, trong phòng ngủ và một mình điều khiển xe đi giao hàng tại huyện C, tỉnh B trong khi chưa có giấy phép lái xe ôtô theo quy định. Sau khi giao hàng xong, Phong điều khiển xe quay về. Khoảng 20 giờ cùng ngày, thì khi đi đến đoạn đường N hướng Cao Bằng – Hà Nội thuộc tổ 8, phường N, thành B, tỉnh B do ngủ gật nên Phong đã không chú ý quan sát, không làm chủ tốc độ, đã điều khiển xe ôtô lao lên vỉa hè đâm đổ cột biển báo ngõ 168 đường N dựng trên vỉa hè, do giật mình và mất bình tĩnh Phong tiếp tục đạp ga và đánh lái sang bên trái theo hướng di chuyển khiến chiếc xe lao về phía trước đâm vào bà Nông Thị T đang đi bộ trên đường (sát vỉa hè bên phải chiều hướng Cao Bằng - Hà Nội) làm bà T bị hất lên nắp capo đập vào kính chắn gió phía trước và văng về phía dải phân cách cứng bằng bê tông (phân chia hai làn đường). Sau đó xe ôtô do Phong điều khiển tiếp tục lao lên trên dải phân cách cứng bằng bê tông làm bật gốc cây ngâu được trồng trên dải phân cách và đi qua làn đường ngược chiều (làn đường dành cho các phương tiện di chuyển theo hướng Hà Nội - Cao Bằng) đâm vào đuôi xe phía bên lái của chiếc xe ôtô biển kiểm soát 97A - 013.61 của anh Bùi MInh T và chị Triệu Thị Thanh H đang đỗ trên vỉa hè hướng Hà Nội - Cao Bằng khiến chiếc xe này bị hư hỏng thì dừng lại. Toàn bộ diễn biến vụ tai nạn giao thông đã được camera hành trình lắp đặt trên chiếc xe ôtô BKS 20D - 006.53 ghi lại. Hậu quả làm bà T bị thương và tử vong tại chỗ, 01 cây ngâu bị bật gốc, 01 cột biển báo bị đổ, xe ôtô BKS 20D - 006.53 và xe ôtô BKS 97A - 013.61 bị hư hỏng nặng.
Ngay sau khi gây tai nạn giao thông, Phạm Mạnh P đã đến Công an thành phố B để đầu thú. Cơ quan Công an đã tiến hành kiểm tra nồng độ cồn và xét nghiệm ma túy đối với Phạm Mạnh P ngay sau khi xảy ra tai nạn, kết quả: Nồng độ cồn là 0mg/l khí thở và dương tính với morphine (Ma túy).
Sau khi xảy ra sự việc, Công an thành phố B đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm phương tiện, trưng cầu giám định, định giá tài sản kết quả như sau:
* Kết quả khám nghiệm hiện trường :
Hiện trường xảy ra tai nạn là đoạn đường một chiều, dốc xuống về hướng Hà Nội, có dải phân cách cứng bằng bê tông (kích thước 1m80x20cm) phân chia hai làn đường; mặt đường trải nhựa áp phan, không duy tu cải tạo; cả hai chiều đường có vạch sơn đứt đoạn màu trắng phân chia thành các làn đường; khoảng cách 300m theo hai chiều không bị che khuất tầm nhìn.
- Lấy cột điện Minh Khai 8-10A được dựng trên vỉa hè bên phải làn đường một chiều hướng Cao Bằng - Hà Nội làm điểm mốc.
- Lấy mép phải đường N hướng Cao Bằng - Hà Nội.
Tiến hành khám nghiệm hiện trường theo hướng Cao Bằng - Hà Nội;
Quan sát trên hiện trường phát hiện dấu vết cày trượt đứt đoạn trên mặt đường, điểm đầu hướng Cao Bằng, điểm cuối hướng Hà Nội; kích thước 1m14 x 3cm x 0,2cm là vị trí số 1:
- Điểm đầu vị trí số 1 đến cột điện Minh Khai 8-10A được dựng trên vỉa hè bên phải làn đường một chiều hướng Cao Bằng - Hà Nội là 13m90 và đến mép phải đường N hướng Cao Bằng - Hà Nội là 1m26.
- Điểm cuối vị trí số 1 đến mép phải đường N hướng Cao Bằng - Hà Nội là 82cm.
- Từ điểm cuối vị trí số 1 với khoảng cách 4m60 về hướng vỉa hè bên phải làn đường một chiều hướng Cao Bằng - Hà Nội phát hiện chiếc cột biển báo bằng kim loại cong gập về hướng Hà Nội, phần chân cột được chôn cố định là vị trí số 2, kích thước tính từ mặt bê tông vỉa hè là cao 96cm x đường kính 7cm.
- Từ chân cột đến cột điện Minh Khai 8-10A được dựng trên vỉa hè bên phải làn đường một chiều hướng Cao Bằng - Hà Nội là 19m và đến mép phải đường N hướng Cao Bằng - Hà Nội là 1m10.
- Từ điểm cuối vị trí số 1 với khoảng cách 6m về hướng Hà Nội phát hiện trên mặt đường có các mảnh nhựa vỡ tập trung trên diện 3m x 2m là vị trí số 3:
- Từ tâm vị trí số 3 đến cột điện Minh Khai 8-10A được dựng trên vỉa hè bên phải làn đường một chiều hướng Cao Bằng - Hà Nội là 20m80 và đến mép phải đường N hướng Cao Bằng - Hà Nội là 1m.
Quan sát trên vỉa hè bê tông tại làn đường chiều hướng Cao Bằng - Hà Nội phát hiện dấu vết cày trượt điểm đầu hướng Cao Bằng, điểm cuối hướng Hà Nội; kích thước 44cm x 2cm x 0,1cm là vị trí số 4:
- Từ điểm đầu vị trí số 4 đến cột điện Minh Khai 8-10A được dựng trên vỉa hè bên phải làn đường một chiều hướng Cao Bằng - Hà Nội là 22m60 và đến mép phải đường N hướng Cao Bằng - Hà Nội là 2m20.
- Từ điểm cuối vị trí số 4 đến mép phải đường N hướng Cao Bằng - Hà Nội là 2m25.
- Từ điểm cuối vị trí số 4 với khoảng cách 3m30 về hướng Hà Nội phát hiện trên vỉa hè cột kim loại gắn biển báo “Ngõ 168 đường N” nằm trên vỉa hè, kích thước dài 1m30 x đường kính 7cm là vị trí số 6.
- Từ vị trí số 6 đến cột điện Minh Khai 8-10A được dựng trên vỉa hè bên phải làn đường một chiều hướng Cao Bằng - Hà Nội là 28m80 và đến mép phải đường N hướng Cao Bằng - Hà Nội là 94cm.
- Từ điểm cuối vị trí số 4 với khoảng cách 3m40 về hướng Hà Nội phát hiện trên bê tông có dấu vết trượt mài bám dính chất màu đen (dấu vết trượt mài lốp xe trên mặt đường), điểm đầu hướng Cao Bằng, điểm cuối hướng mép trái làn đường chiều hướng Cao Bằng - Hà Nội, kích thước 23m x 10cm là vị trí số 5:
- Từ điểm đầu vị trí số 5 đến cột điện Minh Khai 8-10A được dựng trên vỉa hè bên phải làn đường một chiều hướng Cao Bằng - Hà Nội là 25m90 và đến mép phải đường N hướng Cao Bằng - Hà Nội là 6cm.
- Từ điểm cuối vị trí số 5 đến mép phải đường N hướng Cao Bằng - Hà Nội là 7m50.
Quan sát trên mép dải phân cách cứng bằng bê tông của làn đường chiều hướng Cao Bằng - Hà Nội phát hiện dấu vết bong tróc, nứt vỡ bê tông chiều hướng Cao Bằng - Hà Nội; kích thước 96cm x 10cm là vị trí số 7.
- Từ điểm đầu vị trí số 7 đến cột điện Minh Khai 8-11A được dựng trên vỉa hè bên phải làn đường chiều hướng Cao Bằng - Hà Nội là 14m47 và đến đầu dải phân cách cứng bê tông hướng Cao Bằng là 8m70.
- Từ điểm cuối vị trí số 7 với khoảng cách 1m90 về hướng Hà Nội phát hiện trên mép dải phân cách cứng bằng bê tông giữa lòng đường chiều hướng Cao Bằng - Hà Nội phát hiện dấu vết bong tróc bê tông kích thước 8cm x 6cm là vị trí số 8: Vị trí số 8 cạnh mép trái làn đường chiều hướng Cao Bằng - Hà Nội.
- Từ điểm cuối vị trí số 7 với khoảng cách 1m40 xiên chéo về làn đường chiều hướng Hà Nội - Cao Bằng phát hiện dấu vết trên dải phân cách có dấu vết bung bật đất kích thước 60cm x 50cm là vị trí số 9:
- Tâm vị trí số 9 đến mép trái làn đường chiều hướng Cao Bằng - Hà Nội là 70cm.
- Từ vị trí số 9 với khoảng cách 3m về hướng Hà Nội phát hiện trên dải phân cách một chân giày vải màu đen (chân phải) là vị trí số 10: Từ vị trí số 10 đến mép trái làn đường chiều hướng Cao Bằng - Hà Nội là 80cm.
- Từ vị trí số 8 với khoảng cách 10m70 về hướng Hà Nội phát hiện tại làn đường chiều hướng Cao Bằng - Hà Nội sát mép dải phân cách phát hiện tử thi Nông Thị T - Sinh năm 1962, trú tại tổ 10, phường N, TP B, tỉnh B đang trong tư thế nằm ngửa, đầu hướng Hà Nội, chân hướng Cao Bằng là vị trí số 11.
- Từ đầu tử thi với khoảng cách với khoảng cách 4m40 về giữa làn đường chiều hướng Cao Bằng - Hà Nội phát hiện chân giày trái bằng vải màu đen: Từ vị trí chân giày trái đến mép chuẩn là 3m60.
- Từ điểm cuối vị trí số 8 với khoảng cách 12m về hướng Hà Nội phát hiện trên dải phân cách một cây ngâu bị bật gốc là vị trí số 13: Từ vị trí số 13 đến chân tử thi Nông Thị T là 1m10.
Quan sát tại làn đường chiều hướng Hà Nội - Cao Bằng phát hiện nhiều cây cỏ nằm rải rác trên mặt đường, kích thước 17m x 7m20 là vị trí số 12.
- Từ vị trí số 8 với khoảng cách 21m40 về hướng mép phải làn đường chiều hướng Hà Nội - Cao Bằng (Đến trục sau bên lái xe ô tô BKS 20D - 006.53) phát hiện chiếc xe ô tô BKS 20D - 006.53 đang dừng đỗ trên vỉa hè, đầu xe hướng nhà số 265, đuôi xe hướng lòng đường làn đường chiều hướng Hà Nội - Cao Bằng là vị trí số 14:
- Từ vị trí số 8 đến trục sau bên phụ vị trí số 14 là 22m10.
- Từ trục sau bên phụ vị trí số 14 đến mép phải làn đường chiều hướng Hà Nội - Cao Bằng là 90cm.
- Từ trục trước bên phụ vị trí số 14 đến mép phải làn đường chiều hướng Hà Nội - Cao Bằng là 85cm.
- Từ trục sau bên phụ vị trí số 14 đến điểm đầu vị trí số 1 là 55m60.
- Từ trục trước bên lái vị trí số 14 với khoảng cách 2m20 về hướng căn nhà số 265 thuộc tổ 8, phường N, thành phố B, tỉnh B (Đến trục sau bên lái chiếc xe ô tô BKS 97A - 013.61) là chiếc xe ô tô BKS 97A - 013.61 đang dừng đỗ trên vỉa hè, đầu xe hướng căn nhà số 265, đuôi xe hướng đường N là vị trí số 15:
- Từ trục trước bên lái vị trí số 14 đến trục sau bên lái vị trí số 15 là 3m50.
- Từ trục sau bên lái vị trí số 15 đến mép phải làn đường chiều hướng Hà Nội - Cao Bằng là 3m.
- Từ trục sau bên phụ vị trí số 15 đến mép phải làn đường chiều hướng Hà Nội - Cao Bằng là 3m30.
Quan sát trên vỉa hè bên phải làn đường chiều hướng Cao Bằng - Hà Nội trước số nhà 176 thuộc tổ 8, phường N, thành phố B là chiếc xe ô tô BKS 97A - 006.63 đang dừng đỗ trên vỉa hè, đầu xe chếch hướng căn nhà số 178, đuôi xe chếch hướng đường N:
- Từ trục sau bên lái xe ô tô BKS 97A - 006.63 đến mép phải đường N hướng Cao Bằng - Hà Nội là 74cm, góc đuôi xe bên lái đến mép phải đường N hướng Cao Bằng - Hà Nội là 30cm.
- Từ trục sau bên lái đến cột điện Minh Khai 8 -11A là 3m55 và trục sau bên phụ đến cột điện Minh Khai 8-11A là 2m88.
- Từ trục trước bên lái đến mép phải đường N hướng Cao Bằng - Hà Nội là 2m20.
Tại thời điểm khám nghiệm bánh trước bên lái của chiếc xe ô tô BKS 20D - 006.53 hết hơi.
Từ kết quả khám nghiệm hiện trường xác định khu vực va chạm với bà Nông Thị T là tại làn đường một chiều bên ngoài hướng Cao Bằng - Hà Nội.
* Kết quả khám nghiệm phương tiện xe ôtô BKS 20D - 006.53:
+ Ba đờ sốc phía trước nứt vỡ, bung bật khỏi vị trí ban đầu.
+ Nắp ca pô máy móp méo, biến dạng, cong gập dồn từ trước về sau.
+ Toàn bộ cụm đèn chiếu sáng phía trước nứt vỡ, bung bật khỏi vị trí ban đầu.
+ Thanh giằng trước móp méo, biến dạng, cong gập từ trước về sau.
+ Két nước móp méo, biến dạng chiều hướng từ trước về sau.
+ Tai xương hai bên phía trước biến dạng, cong gập biến dạng chiều hướng từ trước về sau.
+ Vỏ kim loại trên trước bên phụ (trên bánh xe) móp méo, cong gập, bám dính chất màu đỏ kích thước 34cm x 36cm.
+ Càng A phía trước bên phụ biến dạng.
+ Bánh xe phía trước bên lái hết hơi, bị dồn từ trước về sau, cạnh ngoài mặt lốp có vết trượt mài cao su mất bụi bám dính chất màu xanh, mặt lăn có vết rách lốp sắc gọn, kích thước 15cm x 0,2cm.
+ Vỏ kim loại trên bánh trước bên lái dồn từ trước về sau.
+ Kính chắn gió phía trước nứt vỡ, từ vị trí gương chiếu hậu bên lái với khoảng cách 60cm phát hiện trên kính chắn gió có dấu vết lông tóc bám dính tập trung trên diện 40cm x 37cm.
+ Phần máy không kiểm tra, toàn bộ dấu vết nêu trên được quan sát mô tả bằng mắt thường.
* Kết quả khám nghiệm phương tiện xe ôtô BKS 97A - 013.61:
+ Ba đờ sốc phía trước bên phải trượt xước, nứt vỡ tập trung trên diện 55cm x 43cm.
+ Cánh cửa phía sau bên phụ có vết móp lõm, cong vênh mất bụi bám dính chất màu đen, kích thước 40cm x 26cm x 2,5cm.
+ Vỏ kim loại phía sau trên bánh sau bên phụ trượt xước bong tróc sơn, cong gập, móp lõm bám dính vỏ cây, kích thước 38cm x 40cm x 5cm.
+ Bánh xe phía sau bên phụ xô lệch từ trong ra ngoài; mặt la zăng móp méo, trượt xước; đầu ốc hãm của bánh bám dính vỏ cây.
+ Toàn bộ ba đờ sốc phía sau nứt vỡ, bung bật khỏi vị trí ban đầu.
+ Vỏ kim loại cốp xe phía sau móp méo, biến dạng từ trái qua phải, kích thước 1m50 x 40cm x 12cm.
+ Cụm đèn tín hiệu phía sau bên lái nứt vỡ, bung bật để lộ bóng đèn bên trong.
+ Toàn bộ phần cánh cửa sau bên lái, vỏ kim loại và nắp bình xăng trượt xước, móp lõm bám dính chất màu xanh, kích thước 1m30 x 90cm x 5cm.
+ Cánh cửa phía trước và phía sau bên lái không mở được.
+ Bánh xe phía sau bên lái xô lệch từ ngoài vào trong, bánh xe hết hơi, la zăng, vành cong gập, trượt xước, nứt vỡ từ ngoài vào trong, kích thước 20cm x 12cm.
+ Giảm sóc thủy lực, lò xo bánh sau bên lái cong gập, bung bật khỏi vị trí ban đầu.
+ Thanh giằng phía sau trục bánh vặn xoắn, xô lệch từ trái qua phải.
+ Phần máy không kiểm tra, toàn bộ dấu vết nêu trên được quan sát mô tả bằng mắt thường.
* Kết quả định giá tài sản thiệt hại:
Tại bản kết luận định giá tài sản số 19 ngày 23/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận:
+ 01 (một) xe ôtô nhãn hiệu KIAMORNING, màu ghi bạc, BKS 97A - 013.61 xe cũ, bị hư hỏng do tai nạn giao thông. Giá trị thiệt hại 19.450.000đ (Mười chín triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng).
+ 01 (một) xe ôtô nhãn hiệu KIAMORNING, màu xanh, BKS 20D - 006.53 xe cũ, bị hư hỏng do tai nạn giao thông. Giá trị thiệt hại 15.600.000đ (Mười năm triệu sáu trăm nghìn đồng).
+ 01 (Một) cột biển báo ngõ 168 đường N bị hư hỏng do tai nạn giao thông. Giá trị thiệt hại 1.800.000đ (Một triệu tám trăm nghìn đồng).
+ 01 (Một) cây ngâu xanh trồng trên dải phân cách bị bật gốc do tai nạn giao thông. Giá trị thiệt hại 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng).
Tổng giá trị thiệt hại của các tài sản là 37.350.000đ (Ba mươi bảy triệu ba trăm năm mươi nghìn đồng).
* Kết quả giám định nguyên nhân bà Nông Thị T tử vong:
Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 13/TT ngày 18/3/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh B kết luận như sau: “1. Dấu hiệu chính qua giám định:
- Đa chấn thương vết thương phần mềm;
- Gãy vỡ đốt sống cổ số 5.
2. Nguyên nhân tử vong: Nông Thị T chết do đứt tủy cổ do gãy vỡ đốt sống cổ số 5”.
* Kết quả giám định an toàn kỹ thuật đối với xe ôtô BKS 20D - 006.53 Tại bản kết luận giám định số: 02/KTHS-KT ngày 08/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B đối với xe ô tô BKS 20D - 006.53 đã kết luận như sau:
“Hệ thống phanh, hệ thống lái của chiếc xe ôtô biển kiểm soát 20D - 006.53 không bị hư hỏng trước khi xảy ra tai nạn giao thông.
Vành bánh trước của xe ô tô biển kiểm soát 20D - 006.53 bị thủng, rách lốp; vỡ la zăng sau khi xảy ra tai nạn giao thông”.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2021/HS-ST ngày 30 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh B đã quyết định:
* Tuyên bố bị cáo Phạm Mạnh P phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
* Áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 260; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Mạnh P 42 (Bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 16/3/2021. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 09 tháng 12 năm 2021, ông Nông Quốc D – sinh năm 1960 – là người đại diện hợp pháp của bị hại Nông Thị T có đơn kháng cáo đề nghị tăng hình phạt tù đối với bị cáo.
Trước khi xét xử phúc thẩm, ngày 23/02/2022, bà H (là vợ của bị cáo Phong) nộp cho Tòa án biên lai tạm thu số tiền là 2.000.000đ (Hai triệu đồng) để đảm bảo thi hành theo quyết định bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Người đại diện hợp pháp của bị hại giữ nguyên kháng cáo đề nghị HĐXX phúc thẩm xem xét tăng hình phạt tù đối với bị cáo Phạm Mạnh P. Người đại diện hợp pháp của bị hại khẳng định việc Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo với hình phạt như vậy là quá thấp so với khung hình phạt theo điểm a, b khoản 2, Điều 260 Bộ luật hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm tại phiên tòa: Đơn kháng cáo của người đại diện bị hại hợp lệ, được xem xét theo trình tự phúc thẩm. Về nội dung kháng cáo: Đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại. Giữ nguyên mức án như bản án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo Phạm Mạnh P.
Lời nói sau cùng: Bị cáo gửi lời xin lỗi đến gia đình bị hại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của Người đại diện hợp pháp của bị hại được thực hiện trong thời hạn luật định nên đủ điều kiện để Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết theo quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung vụ án: Trên cơ sở các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX có cơ sở để khẳng định: Khoảng 20 giờ ngày 16/3/2021, tại đoạn đường N thuộc tổ 8, phường N, thành phố B, tỉnh B, Phạm Mạnh P điều khiển xe ôtô BKS 20D - 006.53 trong tình trạng đã sử dụng chất ma túy và không có giấy phép lái xe theo quy định đi theo hướng Cao Bằng – Hà Nội, do ngủ gật, không chú ý quan sát, đi không đúng phần đường quy định, không làm chủ được tốc độ nên đã điều khiển xe lao lên vỉa hè đâm đổ cột biển báo ngõ 168 dựng trên vỉa hè, rồi tiếp tục đạp ga và đánh lái sang bên trái theo chiều hướng di chuyển khiến chiếc xe lao về phía trước đâm vào bà Nông Thị T đang đi bộ sát vỉa hè (hướng Cao Bằng - Hà Nội) làm bà T bị hất lên nắp capo đập vào kính chắn gió phía trước và văng về phía dải phân cách cứng bằng bê tông phân chia hai làn đường. Sau đó xe ôtô do Phong điều khiển tiếp tục lao lên trên dải phân cách làm bật gốc cây ngâu được trồng trên dải phân cách và đi sang làn đường ngược chiều (hướng Hà Nội - Cao Bằng) đâm vào phần đuôi của chiếc xe ôtô biển kiểm soát 97A - 013.61 của anh Bùi MInh T và chị Triệu Thị Thanh H đang đỗ trên vỉa hè thì dừng lại. Hậu quả làm bà Nông Thị T tử vong và gây thiệt hại về tài sản cho xe ôtô BKS 97A - 013.61 là 19.450.000đ (Mười chín triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng); xe ôtô BKS 20D-006.53 là 15.600.000đ (Mười năm triệu sáu trăm nghìn đồng); 01 (Một) cột biển báo ngõ 168 là 1.800.000đ (Một triệu tám trăm nghìn đồng); 01 (Một) cây ngâu là 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng).
Hành vi nêu trên của bị cáo đã vi phạm quy định tại khoản 7, khoản 9 Điều 8, khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 12 Luật giao thông đường bộ năm 2008 và khoản 3 Điều 4, khoản 5 Điều 5 Thông tư 31/2019/TT-BGTVT ngày 29 tháng 8 năm 2019. Do đó việc cấp sơ thẩm xét xử đối với bị cáo Phạm Mạnh P về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[3] Xét kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bị hại đề nghị HĐXX phúc thẩm xem xét tăng hình phạt tù đối với bị cáo, HĐXX thấy rằng:
Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Phạm Mạnh P như: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại Nông Thị T số tiền là 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng), bồi thường cho anh Bùi MInh T và chị Triệu Thị Thanh H số tiền là 55.000.000đ (Năm mươi lăm triệu đồng), điều này thể hiện bị cáo quyết tâm khắc phục phần nào thiệt hại do bị cáo gây ra cho gia đình bị hại nên được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Ngay sau khi gây tai nạn giao thông, Phạm Mạnh P đã đến Công an thành phố B để đầu thú, đồng thời bị cáo có bố mẹ đẻ được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến nên được hưởng thêm 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Do có nhân thân xấu, có 02 tiền án, chưa được xóa án tích nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo và xét xử bị cáo Phạm Mạnh P về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Xử phạt mức hình phạt 42 (Bốn mươi hai) tháng tù theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 260 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, việc Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo 42 tháng tù là thấp so với khung hình phạt bởi bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo có nhân thân xấu, bị cáo nghiện ma túy, đã có 02 tiền án về ma túy chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục “tái phạm”. Bị cáo nhận thức rõ về hành vi của mình là vi phạm pháp luật, không có giấy phép lái xe mà vẫn cố tình điều khiển phương tiện giao thông là vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, thời điểm phạm tội bị cáo có sử dụng chất ma túy nên không làm chủ được hành vi gây hậu quả nghiêm trọng dẫn tới chết 01 người, gây thiệt hại về tài sản của cá nhân, cơ quan, nhà nước, lỗi hoàn toàn thuộc về bị cáo. Sau khi xảy ra vụ việc, mặc dù bị cáo đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng) tuy nhiên việc bồi thường số tiền 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng) này chưa được ½ so với mức tiền phải bồi thường là 149.400.000đ (Một trăm bốn mươi chín triệu bốn trăm nghìn đồng) theo quyết định của bản án sơ thẩm đã tuyên.
Tại cấp phúc thẩm bị cáo tác động người nhà nộp và cung cấp biên lai tạm thu số tiền là 2.000.000đ (Hai triệu đồng) để đảm bảo thi hành theo quyết định bản án sơ thẩm cũng thể hiện thái độ ăn năn hối cải của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình.
Hội đồng xét xử thấy: Hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, coi thường kỷ cương pháp luật, hậu quả bị cáo gây ra không những gây đau thương, mất mát cho gia đình bị hại mà còn trực tiếp xâm phạm đến trật tự an toàn công cộng, gây mất trật tự an toàn giao thông đường bộ, việc sử dụng ma túy là một phần nguyên nhân dẫn đến sự việc bị cáo vi phạm pháp luật do đó cần thiết phải xử lý nghiêm khắc hơn. Xem xét thấy bị cáo phạm hai tình tiết tăng nặng định khung là không có giấy phép lái xe và sử dụng chất ma túy nhưng cấp sơ thẩm xét xử hình phạt 42 (bốn mươi hai) tháng tù là thấp so với mức độ hành vi phạm tội. Vì vậy, có căn cứ để chấp nhận kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo của đại diện bị hại.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị không chấp nhận kháng cáo của Người đại diện hợp pháp của bị hại. Giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố B. Tuy nhiên, qua những căn cứ nêu trên HĐXX thấy cần chấp nhận tăng hình phạt theo nội dung kháng cáo của người đại diện hợp pháp cho bị hại.
[4] Về án phí: Do kháng cáo của Người đại diện hợp pháp của bị hại được Hội đồng xét xử chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm a, khoản 2 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Chấp nhận kháng cáo của người đại diện hợp pháp cho bị hại Nông Thị T.
Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2021/HS-ST ngày 30 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh B về phần hình phạt đối với bị cáo. Áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 260; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015:
Xử phạt bị cáo Phạm Mạnh P 48 (Bốn mươi tám) tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 16/3/2021.
2. Tạm giữ để bảo đảm thi hành án cho bị cáo Phạm Mạnh P số tiền 2.000.000đ (hai triệu đồng) theo biên lai thu tiền số 0002022 ngày 23/02/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B.
3. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Người đại diện hợp pháp của bị hại không chịu án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 03/2022/HS-PT
Số hiệu: | 03/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/02/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về