Bản án về tội vi phạm quy định bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm số 29/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 29/2022/HS-ST NGÀY 26/04/2022 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM

Ngày 26 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 28/2022/TLST - HS ngày 01 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2022/QĐXXST - HS ngày 13 tháng 4 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Tẩn Sài X (Tên gọi khác: Không); Sinh năm 1991 tại tỉnh Lai Châu; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Bản L, xã S, huyện P, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Dao; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Tẩn Phủ H, sinh năm 1951 và bà Chẻo Tả M, sinh năm 1954; Vợ: Tẩn Tả M, sinh năm 1993; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/12/2021, đến ngày 18/12/2021 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay (Có mặt).

2. Tẩn Lao S (Tên gọi khác: Không); Sinh năm 2001 tại tỉnh Lai Châu; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Bản L, xã S, huyện P, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Dao; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Tẩn Sài S, sinh năm 1976 và bà Phàn Lở M, sinh năm 1976; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/12/2021, đến ngày 18/12/2021 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay (Có mặt).

- Người bào chữa cho các bị cáo: Ông Lê Mạnh H - Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lai Châu (Có mặt).

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Tẩn Sài S, sinh năm 1976 - Trú tại: Bản L, xã S, huyện P, tỉnh Lai Châu (Có mặt).

2. Bà Phàn Lở M, sinh năm 1976 - Trú tại: Bản L, xã S, huyện P, tỉnh Lai Châu (Có mặt).

3. Bà Tẩn Tả M, sinh năm 1993 - Trú tại: Bản L, xã S, huyện P, tỉnh Lai Châu (Có mặt).

- Người phiên dịch tiếng dân tộc Dao: Ông Đặng Thái S, sinh năm 1986 - Nơi công tác: Xã S, huyện P, tỉnh Lai Châu (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Khoảng đầu tháng 11/2021, Tẩn Sài X bẫy được 01 cá thể gấu trên rừng, sau đó X có chia con gấu thành nhiều phần, lọc lấy thịt rồi để lại 04 chân gấu, xương gấu, 01 mật gấu đông đá bảo quản với mục đích để bán. Đến ngày 28/11/2021, Tẩn Lao S (là cháu họ của Tẩn Sài X) lên nhà X chơi, X có nhờ S tìm người mua nên S có lấy điện thoại của mình chụp lại hình ảnh 04 chân gấu và phần xương gấu. Đầu tháng 12/2021, S nhận được cuộc gọi từ số 0972.542.031 gọi đến số 0355.548.653 của Tẩn Lao S nói là người ở Lào Cai và hỏi mua gấu. Qua trao đổi S và người mua thỏa thuận bán 04 chân gấu, xương gấu, 01 mật gấu với giá 160.000.000 đồng. Sau đó, S thông báo lại cho X, X đồng ý. Đến ngày 08/12/2021, người mua gấu gọi lại cho S hẹn sáng mai sẽ đến Phong Thổ. Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 09/12/2021, S gọi điện cho X nói người mua hàng chuẩn bị đến và điều khiển xe máy biển kiểm soát 25B1-678.00 đi đến khu vực xã P, huyện P, tỉnh Lai Châu đón 02 người mua. Sau đó, S gọi điện cho X và hẹn gặp nhau tại khu vực vắng người qua lại tại bản T, xã M, huyện P, tỉnh Lai Châu. X cho 04 chân gấu vào 01 bao tải màu cam, 09 mảnh xương gấu vào 01 túi nilon trắng, bên ngoài là bao tải màu trắng, sau đó xếp vào 02 thùng bìa cát tông màu vàng rồi cầm theo 01 túi mật gấu cho lên xe máy biển kiểm soát 29Y3 -305.26 chở đến điểm hẹn. Khoảng 14 giờ 20 phút cùng ngày 09/12/2021 tại bản T, xã M, huyện P, tỉnh Lai Châu, sau khi X đưa cho người mua kiểm tra mật gấu thì bị Công an tỉnh Lai Châu phát hiện, 02 người mua cầm túi mật gấu chạy thoát, còn X và S bị bắt quả tang, vật chứng thu giữ gồm 01 hộp cát tông màu vàng bên trong có 01 bao tải màu cam đựng 04 chân gấu và 01 hộp cát tông màu vàng bên trong có 01 bao tải màu trắng, tiếp đến là túi ni lon màu trắng bên trong đựng 09 mảnh xương gấu.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Về các vấn đề khác của vụ án:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận: 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave RSX F1màu xám đỏ, biển kiểm soát B, kèm chìa khóa xe và 01 chứng nhận đăng ký xe mang tên Tẩn Lao S; 01 xe máy nhãn hiệu Hon da Wave RSX màu đỏ đen, biển kiểm soát Y, kèm chìa khóa xe và 01 chứng nhận đăng ký xe mang tên Phùng Xuân T. Các bị cáo khai là tài sản chung của gia đình các bị cáo, các bị cáo sử dụng chiếc xe trên làm phương tiện phạm tôi gia đình không biết; Đối với 02 hộp cát tông màu vàng, 01 túi nilon màu trắng, 01 bao tải màu trắng và 01 bao tải màu cam đã qua sử dụng là của bị cáo X dùng để đựng chân gấu và xương gấu; Đối với 01 điện thoại di động OPPO A57 màu gold là của bị cáo Tẩn Sài X, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu xanh là của bị cáo Tẩn Lao S. Các bị cáo khai, các điện thoại trên các bị cáo dùng để liên lạc với nhau khi thực hiện hành vi phạm tội.

Tại phiên tòa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Tẩn Sài S và bà Phàn Lở M trình bày: Ông, bà là bố mẹ của bị cáo Tẩn Lao S, xe máy biển kiểm soát B là tài sản chung của ông bà và bị cáo S, ông bà không biết đi xe nên đăng ký mang tên bị cáo S, bị cáo S dùng chiếc xe trên làm phương tiện phạm tội ông bà không biết nên đề nghị Hội đồng xét xử xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Tẩn Tả M trình bày:

01 xe máy biển kiểm soát Y là tài sản chung của bà và chồng là bị cáo Tẩn Sài X, bị cáo X dùng chiếc xe trên làm phương tiện phạm tội bà không biết nên đề nghị Hội đồng xét xử xử lý theo quy định của pháp luật.

Theo lời khai của bị cáo Tẩn Lao S: Số điện thoại 0972.542.031 là của người khách ở Lào Cai đặt mua chân gấu, xương gấu và mật gấu. Kết quả điều tra xác định số điện thoại này được đăng ký bằng chứng minh nhân dân của Lưu Minh T, sinh năm 1973 - Trú tại xóm T, xã V, huyện PL, tỉnh Thái Nguyên. Tuy nhiên theo T khai nhận không đăng ký sử dụng số thuê bao này cũng như không quen biết với Tẩn Sài X, Tẩn Lao S, do đó không có cơ sở để xử lý T.

Theo lời khai của Tẩn Sài X và Tẩn Lao S: Ngày 09/12/2021 X và S còn mang 01 mật gấu đi bán, tuy nhiên khi đưa mật gấu cho 02 người mua để kiểm tra thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lai Châu bắt quả tang, người mua cầm mật gấu bỏ chạy. Kết quả điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của 02 người đặt mua gấu với Tẩn Lao S nên không có cơ sở để điều tra, xác minh xử lý trong cùng vụ án.

Tại kết luận giám định sơ bộ số 1179/STTNSV ngày 16/12/2021 của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam kết luận: 04 chân (chi) động vật, lông màu đen là của loài gấu ngựa, có tên khoa học Ursus thibetanus; 09 mảnh xương động vật tiếp tục được phân tích để cho kết luận bổ sung.

Tại kết luận giám định bổ sung số 1220/STTNSV ngày 23/12/2021 của Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, kết luận: 09 mảnh xương động vật (gồm các bộ phận: xương hộp sọ, xương bả vai, xương sống lưng, xương chậu và các xương sườn gắn liền với nhau, xương ống chân và 04 chân (chi) động vật lông màu đen là của loài gấu ngựa, có tên khoa học Ursus thibetanus. Cơ quan giám định không có đủ cơ sở khoa học để kết luận các mẫu vật trên thuộc bao nhiêu cá thể động vật.

Tại bản cáo trạng số 13/CT-VKSLC-P1 ngày 31/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu đã truy tố các bị cáo Tẩn Sài X, Tẩn Lao S về tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 244 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Tẩn Sài X, Tẩn Lao S phạm tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm”.

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 244, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65 Bộ luật hình sự: Xử phạt mỗi bị cáo từ 18 tháng đến 24 tháng tù cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 36 tháng đến 48 tháng đối với mỗi bị cáo.

Áp dụng khoản 4 Điều 244 Bộ luật hình sự: Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 02 hộp cát tông màu vàng, 01 túi nilon màu trắng, 01 bao tải màu trắng và 01 bao tải màu cam đã qua sử dụng;

Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động OPPO A57 màu gold; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu xanh; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave RSX F1màu xám đỏ, biển kiểm soát B, số khung: RLHJA3858KY029186, số máy: JA52E-0073845, dung tích xi lanh 109,2, kèm theo chìa khóa xe và 01 chứng nhận đăng ký xe mang tên Tẩn Lao S; 01 xe máy nhãn hiệu Hon da Wave RSX màu đỏ đen, biển kiểm soát Y, số khung: RLHJA3128EY056294, số máy: JA31E- 0310513, dung tích xi lanh 109, kèm theo chìa khóa xe và 01 chứng nhận đăng ký xe mang tên Phùng Xuân T.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về các quyết định nêu trên.

Tại phiên tòa, người bào chữa cho các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1, khoản 4 Điều 244, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65 Bộ luật hình sự cho các bị cáo được hưởng án treo, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo. Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự: Trả lại cho gia đình bị cáo Tẩn Lao S 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave RSX F1màu xám đỏ, biển kiểm soát B, kèm theo chìa khóa xe và 01 chứng nhận đăng ký xe mang tên Tẩn Lao S; Xử lý theo quy định của pháp luật 01 xe máy nhãn hiệu Hon da Wave RSX màu đỏ đen, biển kiểm soát Y, kèm theo chìa khóa xe và 01 chứng nhận đăng ký xe mang tên Phùng Xuân T.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo xin Hội đồng xét xử cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Lai Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và xét xử tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Khoảng 14 giờ 20 phút ngày 09/12/2021, tại bản T, xã M, huyện P, tỉnh Lai Châu, Tẩn Sài X và Tẩn Lao S đang bán trái phép 04 chân gấu và 09 mảnh xương gấu ngựa là sản phẩm của gấu cho 02 đối tượng không rõ tên tuổi địa chỉ với giá 160.000.000 đồng thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lai Châu phát hiện và bắt quả tang.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm. Các bị cáo ý thức được điều đó nhưng vì mục đích tư lợi cá nhân nên vẫn cố ý thực hiện. Các bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình đã gây ra. Do đó, hành vi nêu trên của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 244 Bộ luật hình sự.

Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án, Hội đồng xét xử thấy rằng đây là vụ án đồng phạm giản đơn, bị cáo Tẩn Sài X là người khởi sướng và trực tiếp mang sản phẩm của gấu đi bán, bị cáo Tẩn Lao S là người trực tiếp trao đổi việc mua bán giúp X. Vì vậy, các bị cáo phải chịu mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà mình đã gây ra.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều chưa có tiền án, tiền sự; trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo, là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Bị cáo Tẩn Sài X có ông ngoại là Chẻo Chín P được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu tặng Bằng khen năm 2011. Bị cáo Tẩn Lao S có ông ngoại là Phàn Chin L được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu tặng Bằng khen năm 1999. Do đó, các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của các bị cáo, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy rằng các bị cáo phạm tội lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ mà không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nên có thể cho các bị cáo tự cải tạo tại địa phương và ấn định thời gian thử thách đối với các bị cáo để các bị cáo thấy được tính nhân đạo của Nhà nước ta mà cố gắng cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

Do đó quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của Kiểm sát viên, người bào chữa tại phiên tòa đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan sai và đúng quy định của pháp luật.

Không chấp nhận đề nghị của người bào chữa về việc trả lại cho gia đình bị cáo Tẩn Lao S 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave RSX F1màu xám đỏ, biển kiểm soát B, kèm theo chìa khóa xe và 01 chứng nhận đăng ký xe mang tên Tẩn Lao S vì đây là tài sản của bị cáo S, S dùng làm phương tiện phạm tội.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 4 Điều 244 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”. Xét thấy, các bị cáo đều nghề nghiệp là làm ruộng, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án: 02 hộp cát tông màu vàng, 01 túi nilon màu trắng, 01 bao tải màu trắng và 01 bao tải màu cam đã qua sử dụng là của bị cáo Tẩn Sài X dùng để cất giấu 09 mảnh xương và 04 chân gấu ngựa mang đi bán, xét không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

Đối với 01 điện thoại di động OPPO A57 màu gold là của bị cáo Tẩn Sài X;

01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu xanh; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave RSX F1màu xám đỏ, biển kiểm soát B, số khung: RLHJA3858KY029186, số máy: JA52E-0073845, dung tích xi lanh 109,2, kèm theo chìa khóa xe và 01 chứng nhận đăng ký xe mang tên Tẩn Lao S là của bị cáo S; 01 xe máy nhãn hiệu Hon da Wave RSX màu đỏ đen, biển kiểm soát Y, số khung: RLHJA3128EY056294, số máy: JA31E-0310513, dung tích xi lanh 109, kèm theo chìa khóa xe và 01 chứng nhận đăng ký xe mang tên Phùng Xuân T là của vợ chồng bị cáo X. Kết quả điều tra xác định các bị cáo sử dụng điện thoại, xe máy trên làm công cụ, phương tiện phạm tội nên cần tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước theo điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

Đối với 04 chân gấu, 09 mảnh xương gấu đã được Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lai Châu thành lập hội đồng tiêu hủy vào ngày 04/01/2022 nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí: Các bị cáo đều là dân tộc thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên cần miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[7] Kiến nghị: Đề nghị Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu tiếp tục xác minh làm rõ các đối tượng mua sản phẩm động vật nguy cấp, quý, hiếm có liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo nhằm tránh lọt người, lọt tội.

Qua vụ án này là bài học nhắc nhở, cảnh tỉnh đối với tất cả mọi người, đặc biệt là các cấp chính quyền cơ sở cần quan tâm tới công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm đến cộng đồng dân cư để hạn chế vi phạm pháp luật bị xử lý về hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 244, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 65, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án đối với các bị cáo.

1. Tuyên bố các bị cáo Tẩn Sài X, Tẩn Lao S phạm tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm”.

2. Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Tẩn Sài X 24 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 48 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (26/4/2022). Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã S, huyện P, tỉnh Lai Châu giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

- Xử phạt bị cáo Tẩn Lao S 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (26/4/2022). Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã S, huyện P, tỉnh Lai Châu giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp bị cáo Tẩn Sài X, Tẩn Lao S thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về vật chứng của vụ án:

- Tịch thu tiêu hủy: 02 hộp cát tông màu vàng, 01 túi nilon màu trắng, 01 bao tải màu trắng và 01 bao tải màu cam đã qua sử dụng.

- Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động OPPO A57 màu gold; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu xanh; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave RSX F1 màu xám đỏ, biển kiểm soát B, số khung: RLHJA3858 KY029186, số máy: JA52E-0073845, dung tích xi lanh 109,2, kèm theo chìa khóa xe và 01 chứng nhận đăng ký xe mang tên Tẩn Lao S; 01 xe máy nhãn hiệu Hon da Wave RSX màu đỏ đen, biển kiểm soát Y, số khung: RLHJA3128EY 056294, số máy: JA31E-0310513, dung tích xi lanh 109, kèm theo chìa khóa xe và 01 chứng nhận đăng ký xe mang tên Phùng Xuân T.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 09 giờ 00 phút ngày 01/4/2022 giữa Công an tỉnh Lai Châu và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lai Châu).

4. Về án phí:

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

Các bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

351
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm số 29/2022/HS-ST

Số hiệu:29/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về