Bản án về tội trộm cắp tài sản số 82/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 82/2023/HS-ST NGÀY 19/05/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 57/2023/HS-ST ngày 27 tháng 3 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 57/2023/HSST-QĐ ngày 07 tháng 4 năm 2023 đối với các bị cáo:

1.PH Văn H, sinh ngày 17/4/2000 tại Vĩnh Phúc; nơi cư trú: thôn P, xã Đ, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông PH Văn T và bà Hoàng Thị C; vợ: Thèn Thị P; có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 03/01/2023 đến ngày 10/01/2023 được thay thế biện pháp ngăn chặn; bị cáo tại ngoại (có mặt).

2. Nguyễn Văn T, sinh ngày 04/3/2000 tại Vĩnh Phúc; nơi cư trú: thôn T, xã Đ, huyện S, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Lê Thị H; vợ, con: Chưa có: tiền án; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 03/01/2023 đến ngày 10/01/2023 được thay thế biện pháp ngăn chặn; bị cáo tại ngoại (có mặt).

Bị hại:

Công ty Interflex V. Đại diện theo pháp luật: Ông JiYong J, chức vụ giám đốc; địa chỉ: Lô CN 5, khu công nghiệp B, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

Đại diện theo ủy quyền: Ông Trần H, sinh năm 1986; địa chỉ: TDP H, phường K, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc (có đơn xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

PH Văn H và Nguyễn Văn T hiện thuê trọ tại thôn N, xã T, huyện B và làm công nhân công ty Interflex V ở KCN Bá Thiện 1, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, do biết công ty có hóa chất bán được tiền nên T và H nảy sinh ý định trộm cắp hóa chất bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Khoảng 19h30 ngày 31/12/2022, H và T chuẩn bị 01 ba lô và 01 túi màu xanh, điều khiển xe mô tô BKS 23N1- 024.xx đi đến công tyInterflex Vina. Trên đường đi T và H vào cửa hàng tạp hóa của anh Nguyễn Văn D ở xã Thiện Kế, huyện Bình Xuyên mua 02 can nhựa - loại can 05 lít rồi để vào trong ba lô và túi màu xanh, sau đó cả hai tiếp tục đi đến cửa phụ của công ty, để xe ở cổng rồi cả hai đem theo ba lô, túi có để can 05 lít đã chuẩn bị đi bộ vào trong phòng để dung dịch hóa chất. Quan sát thấy trong phòng có nhiều can nhựa màu xanh loại 20 lít bên trong đựng dung dịch phụ gia mạ Crom Cata AC – 50 dạng lỏng. H nhặt một túi zíp – có sẵn ở trong phòng cắt phần đáy túi để làm phễu đưa cho T cầm giữ để H bê 01 can nhựa 20 lít (bên trong chứa dung dịch) san triết vào hai can nhựa 05 lít, sau khi rót đầy dung dịch vào hai can nhựa 05 lít H để can dung dịch 20 lít vào vị trí cũ rồi H và T mỗi người cho 01 can 05 lít để vào trong balo và túi xách đi ra khỏi công ty theo lối cổng phụ, lấy xe mô tô chở 02 can dung dịch trộm cắp đượcvề phòng trọ cất giấu. Đến ngày 01/1/2023, T đem bán số hóa chất trộm cắp được cho anh Phó Đức T là người thu mua phế liệu, phế phẩm của các công ty được số tiền 6.000.000đ. Khi trao đổi mua bán Tài hỏi T về nguồn gốc sốhóa chất thì T nói “ công ty em thừa ít hóa chất không dùng đến nên bán rẻ cho em, giờ em bán cho anh” T không nói, anh Tài không biết số hóa chất đó là do T trộm cắp mà có nên anh Tài tin tưởng và đồng ý mua. Số tiền này T chi tiêu cá nhân hết. Sau khi mua được hóa chất của T, Tài đã đem bán cho một cửa hàng ở phố Hàng Bạc – Hoàn Kiếm – TP Hà Nội (không nhớ tên, địa chỉ cụ thể) được 7.800.000đ.

- Vật chứng thu giữ: 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus, 01 balo màu đen và 01 túi màu xanh.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 04 ngày 07/01/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bình Xuyên, kết luận: 10,6 lít dung dịch phụ gia mạ Crom Cata AC – 50 dạng lỏng trị giá là 12.461.400đ .

Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:

Đối với 01 ba lô màu đen và 01 túi màu xanh xác định là tài sản hợp pháp của PH Văn H, ngày 31/12/2022 T và H sử dụng để đi trộm cắp tài sản cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 ĐTDĐ Iphone 7 Plus thu giữ của T xác định là tài sản hợp pháp của T sử dụng để liên lạc với Tài để bán hóa chất cần tịch thu bán sung quỹ Nhà nước.

Đối với xe mô tô BKS 23N1- 024.xx xác định là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Văn Công, ngày 31/12/2022 khi H mượn xe của anh Công, H không nói, anh Công không biết H sử dụng xe để đi trộm cắp tài sản. Quá trình điều tra CQĐT cũng không thu giữ chiếc xe trên. CQĐT không xử lý đối với anh Công là đúng quy định.

Đối với 10.6 lít dung dịch phụ gia mạ Crom Cata AC – 50, sau khi mua được của T, Tài đã mang số hóa chất trên bán cho một cửa hàng ở phố Hàng Bạc - Hoàn Kiếm - TP Hà Nội (không nhớ tên, địa chỉ cụ thể). Do vậy CQĐT không thu hồi được. Ngày 26/2/2023, Nguyễn Văn T và PH Văn H đã tự nguyện bồi thường cho công ty Interflex Vina số tiền 12.461.400đ (trong đó T là 7.461.000, H là 5.000.000đ). Sau khi nhận đủ số tiền ông Trần Hoàng - đại diện công ty không có yêu cầu đề nghị gì đối với T và H.

Đối với anh Phó Đức T là người mua dung dịch hóa chất của T. Khi bán cho Tài, T không nói, anh Tài không biết tài sản trên do T trộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với anh Tài là phù hợp Tại Cáo trạng số: 67/CT-VKSBX ngày 24/3/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố Phùng Văn H và Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo PH Văn H và Nguyễn Văn T vẫn khai nhận như đã khai tại Cơ quan điều tra, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với các bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b,i,s khoản 1,2 Điều 51; khoản 1,2,5 Điều 65 của Bộ luật hình sự, xử phạt Phùng Văn H từ 08 đến 10 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 tháng đến 20 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; xử phạt Nguyễn Văn T từ 08 đến 10 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 tháng đến 20 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Ngoài ra còn đề nghị xử lý vật chứng theo quy định.

Các bị cáo không bào chữa và tranh luận gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo được hưởng án treo, cải tạo tại địa phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo Phùng Văn H và Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, vật chứng thu được và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, có đủ căn cứ kết luận:

Khoảng 19 giờ 30 ngày 31/12/2023, tại Công ty Interflex Vina ở KCN Bá Thiện 1, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, Nguyễn Văn T và Phùng Văn H đều là công nhân của công ty đã lén lút trộm cắp 10,6 lít dung dịch phụ gia mạ Crom Cata AC – 50 của công ty có trị giá theo định giá là 12.461.400đ rồi đem bán cho anh Phó Đức T với giá 6.000.000 đồng. Số tiền bán dung dịch T đã chi tiêu cá nhân hết.

Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản nêu trên của các bị cáo Phùng Văn H và Nguyễn Văn T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự; cụ thể điều luật quy định:

“1. .Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng… thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…”.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội tại địa phương. Vì vậy, cần phải xử phạt các bị cáo một mức hình phạt nghiêm mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, vai trò tham gia trong vụ án, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo nhận thấy:

Các bị cáo phạm tội theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự có mức cao nhất của khung hình phạt đến 03 năm tù nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì trường hợp trên thuộc tội phạm ít nghiêm trọng.

Trong vụ án này bị cáo H là người khởi sướng, bị cáo T là đồng phạm tích cực cùng thực hiện hành vi trộm cắp và là người trực tiếp đi bán lấy tiền tiêu sài cá nhân nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội mà mình đã gây ra. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy: Các bị cáo H và T là những người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Sau khi phạm tội các bị cáo đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả. Do đó các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, sau khi xảy ra sự việc các bị cáo đã đến cơ quan điều tra đầu thú nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xét thấy, các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào, có nơi cư trú rõ ràng. Do vậy, việc buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù là chưa cần thiết , cho các bi cao đươc hưởng án treo cải tạo tại địa phương như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa cũng đủ giáo dục cải tạo các bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung:

Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa xác định các bị cáo không có công việc ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn, cần miễn hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi xảy ra vụ việc Nguyễn Văn T và Phùng Văn H đã tự nguyện bồi thường cho công ty Interflex Vina số tiền 12.461.400đ (trong đó T là 7.461.000, H là 5.000.000đ). Sau khi nhận đủ số tiền ông Trần Hoàng - đại diện công ty không có yêu cầu đề nghị gì đối với T và H nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về vật chứng:

Cần tịch thu, bán phát mại nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu iphone 7plus của T là phương tiện liên lạc thực hiện hành vi phạm tội; Cần tịch thu tiêu hủy 01 ba lô và 01 túi màu xanh thu giữ của H, các bị cáo đã sử dụng để đi trộm cắp tài sản.

[7] Vê án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy đinh cua phap luât.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo PH Văn H và Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1, 2,5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Phùng Văn H 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01năm 06 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1, 2,5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Văn T 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01năm 06 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Phùng Văn H cho Ủy ban nhân dân xã Đồng Cương, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Giao bị cáo Nguyễn Văn T cho Ủy ban nhân dân xã Đồng Thịnh, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Căn cứ khoản 1 Điều 47, Điều 48 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu, bán phát mại nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu iphone 7plus của T là phương tiện liên lạc thực hiện hành vi phạm tội; Tịch thu tiêu hủy 01 ba lô và 01 túi màu xanh thu giữ của H, các bị cáo đã sử dụng để đi trộm cắp tài sản.

(Đặc điểm tang vật như Biên bản bàn giao vật chứng ngày 17/04/2023).

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án; buộc PH Văn H và Nguyễn Văn T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 82/2023/HS-ST

Số hiệu:82/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về