Bản án về tội trộm cắp tài sản số 81/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 81/2023/HS-ST NGÀY 20/04/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 4 năm 2023 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 71/2023/TLST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 99/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo:

- Phan Phú P, sinh năm 2001, tại: Gia Lai; Hộ khẩu thường trú: Thôn B, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: Sinh viên trường Đại học Công nghiệp Thành phố H; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Phú T, sinh năm 1972 và bà Hoàng Thị S, sinh năm 1975; Chưa có vợ; tiền sự: Không; tiền án: Không; Tạm giữ,tạm giam ngày: 10/12/2022; (Có mặt).

- Bị hại:

1/- Ông Đào Diệp K, sinh năm 1998; Địa chỉ: số D đường D, Phường E, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.(Vắng mặt);

2/- Anh Nguyễn Vũ D, sinh năm 2004; Địa chỉ: số D đường D, Phường E, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.(Vắng mặt);

3/- Anh Dương Văn K1, sinh năm 2004; Địa chỉ: 4 đường D, Phường E, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.(Vắng mặt);

4/- Anh Trần D1, sinh năm 2004; Địa chỉ: 4 đường D, Phường E, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.(Vắng mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/- Ông Nguyễn Minh T1, sinh năm 1995; Hộ khẩu thường trú: xã P, huyện T, tỉnh Bình Định; Chổ ở: số A đường L, Phường A, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.(Vắng mặt);

2/- Ông Phan Phú T, sinh năm 1972; Hộ khẩu thường trú: Thôn B, xã L, huyện C, tỉnh Gia Lai; Chổ ở: số I đường B, khu phố N, huyện D, tỉnh Bình Dương.(Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 08/12/2022, Phan Phú P bắt xe ôm từ tỉnh Bình Dương (nhà anh ruột của P) đến sân bóng đá mini tại địa chỉ số: 1 T, Phường E, G để cùng bạn đá bóng như đã hẹn nhau từ trước, khi đến nơi thì P không gặp bạn do P nhầm thời gian hẹn là 18 giờ 30 chứ không phải 17 giờ 30 nên đứng xem người khác đá bóng đợi bạn.

Đến khoảng 17 giờ 20 phút cùng ngày, P đi ra ngoài ăn cơm đợi đến 18 giờ 30 phút thì quay lại, trên đường ra cổng sân bóng đá mini thì P thấy một chiếc điện thoại hiệu Iphone 7 Plus màu đen và một túi vải màu xám đen để gần cổng ra vào, không có người trông coi nên P nảy sinh ý định trộm cắp, P lại gần lấy điện thoại hiệu Iphone 7 Plus màu đen bỏ vào túi phải áo khoác của P, còn túi vải màu xám đen thì P đeo trên vai rồi nhanh chóng bỏ đi.

Đến khoảng 17 giờ 40 cùng ngày, P lấy thẻ ATM S1 số thẻ 9704030xxxx71592 tên Trần D1 ra cây ATM của Ngân hàng A trên đường L để thử rút tiền, thấy CCCD tên Trần D1 sinh ngày 30/04/2004, do P đặt mật khẩu thẻ ATM của P cũng bằng ngày tháng năm sinh của P là 080901, nên P thử nhập mật khẩu tài khoản của Trần D1 là 300404 thì đăng nhập thành công, P không biết tài khoản có bao nhiêu, P chỉ rút 500.000 đồng để sử dụng.

P lấy toàn bộ số tài sản, giấy tờ trong cái bóp màu đen và cái màu nâu bỏ chung vào cái bóp màu xám, rồi bỏ tất cả cùng 03 điện thoại trên vào túi vải màu xám đen, còn 02 cái bóp màu nâu và đen thì P quăng trên đường, hiện P không nhớ rõ nơi quăng 02 cái bóp, Công an P1, quận G có dẫn P đi thu hồi 02 cái bóp nhưng P không nhớ được là quăng ở đâu.

Sau đó, P đi bộ ra công viên gần đó ngồi thì đến 19 giờ 50 cùng ngày, P nhận được cuộc gọi và tin nhắn qua Facebook tên “Trần D1” từ chiếc điện thoại hiệu Iphone 7 Plus màu đen, P không biết người gọi là ai, người đó xin chuộc lại tài sản, sau đó thỏa thuận chuộc trước chiếc điện thoại hiệu Iphone 7 Plus màu đen và CCCD số 093204001331 tên Dương Văn K1 với số tiền là 2.000.000 đồng, P đặt Grap giao đến địa chỉ 4 D, phường E, quận G, hình thức giao hàng thu hộ, nghĩa là tài xế G đưa P 2.000.000 đồng, người nhận hàng sẽ trả lại cho tài xế Grap 2.000.000 đồng, tuy nhiên tài xế G không đưa tiền mặt mà chuyển khoản vào tài khoản BIDV số 17710000277167 của P.

Khoảng 20 giờ 40 cùng ngày, P bắt xe ôm chở đi lòng vòng kiếm nơi bán điện thoại thì P tới cửa hàng điện thoại tại địa chỉ A L, phường A, G, của anh Nguyễn Minh T1, P lấy chiếc điện thoại di động hiệu Vivo V25e màu vàng bán được số tiền 1.800.000 đồng, anh T1 chuyển khoản vào tài khoản BIDV số 17710000277167 của P. P giao điện thoại hiệu Vivo V25e cho anh T1, lấy sim trong chiếc điện này ra, gắn vào chiếc điện thoại Iphone 8 Plus của P, khoảng 10 phút sau thì có người gọi qua sim điện thoại này, xin chuộc lại 02 điện thoại còn lại và giấy tờ cá nhân thì P đồng ý. P quay lại cửa hàng điện thoại xin chuộc lại chiếc điện thoại hiệu Vivo V25e nhưng anh T1 hẹn sáng mai quay lại nên P đi về.

Sau đó, P đi bộ tới cửa hàng T2 trên đường L nhưng đang đi thì bị Công an phường P1, quận G kiểm tra mời về làm việc và thừa nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản.

Đối với Nguyễn Minh T1, người đã mua lại chiếc điện thoại di động hiệu Vivo V25e 128GB màu vàng của Phan Phú P. Khi mua điện thoại trên, anh T1 không biết điện thoại do P trộm cắp mà có nên không có căn cứ để xử lý T1 về hành vi Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Khi bắt giữ P, Cơ quan điều tra có thu giữ:

- 01 (một) áo khoác màu đen phía trước bên ngực trái áo có ký hiệu “B”, phía sau áo có ký hiệu “BLVCK” “MISSING”; 01 điện thoại di động Iphone 8 Plus; 01 điện thoại di động Iphone 6; 01 thẻ ATM ngân hàng OCB số 3565627492209560;

01 thẻ ATM ngân hàng B, đây là các tài sản cá nhân của Phan Phú P. Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã ban hành quyết định trả lại các tài sản trên cho P.

- 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu IPhone 7 Plus 32 GB, màu đen, số sê ri: C39T28WYHG04, đã qua sử dụng, là tài sản riêng của bị hại Đào Diệp K. Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản xác định, điện thoại trên có giá trị: 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng). Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã trả lại điện thoại trên cho anh K.

- 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu SamSung Galaxy A12 128GB, màu xanh, số imei: 357026895076515/01, đã qua sử dụng, là tài sản của bị hại Nguyễn Vũ D. Kết luận định giá tài sản số 286/KL ngày 16/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản xác định, điện thoại trên có giá trị: 1.166.667 đống (Một triệu một trăm sáu mươi sáu ngàn sáu trăm sáu mươi bảy đồng). Quá trình điều tra Cơ quan điều tra Công an quận G đã trả lại điện thoại trên cho anh Vũ D.

- 01 chiếc điện thoại di động hiệu Vivo V25e 128GB màu vàng, số imei: 860672067894118, đã qua sử dụng là tài sản của bị hại Dương Văn K1. Kết luận định giá tài sản số 286/KL ngày 16/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản xác định, điện thoại trên có giá trị: 4.100.000 (Bốn triệu một trăm ngàn) đồng.

- 01 bóp màu xám có chữ “baellerry”, đã cũ, không có giá trị, là tài sản của Dương Văn K1. Cơ quan điều tra Công an quận G đã trả lại cho anh K1.

- 01 thẻ ATM S1 số thẻ 9704 030xxxx71592 tên Trần D1, là thẻ ATM của bị hại Trần D1, P sử dụng thẻ ATM nhập mật khẩu theo ngày tháng năm sinh của Trần D1 rồi rút 500.000 đồng tiền mặt; 01 túi vải màu xám đen có chữ “BASIC ELLE”, là các tài sản của bị hại Trần D1. Cơ quan điều tra Công an quận G đã trả lại cho Trần D1 - Tiền Việt Nam: 900.000 đồng (đây là số tiền còn lại sau khi P trộm được tổng cộng 1.020.000 đồng tiền mặt nhưng đã sử dụng hết 120.000 đồng, trong đó của Trần D1 80.000 đồng, Nguyễn Vũ D 40.000 đồng, Dương Văn K1 400.000 đồng và 500.000 đồng rút ra từ thẻ ATM của Trần D1).

Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại Nguyễn Vũ D, Trần D1, Đào Diệp K và Dương Văn K1 đã nhận lại toàn bộ tài sản bị mất trộm và đã nhận số tổng số tiền bồi thường 3.020.000 đồng do ông Phan Phú T là cha ruột của Phan Phú P bồi thường, các bị hại không có yêu cầu bồi thường gì thêm.

Ông Phan Phú T cũng đã bồi thường cho anh Nguyễn Minh T1 số tiền 1.800.000 đồng, đây là số tiền anh T1 đã mua lại điện thoại của P, anh T1 không có yêu cầu gì thêm.

Tại bản cáo trạng số 78/CTr-VKS, ngày 15/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố Phan Phú P về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà Viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b,s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Đề nghị xử phạt bị cáo Phan Phú P từ 9 tháng đến 01 năm tù. Miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

Trả lại cho ông Phan Phú T 900.000 đồng thu giữ.

Tại phiên tòa hôm nay khi nói lời sau cùng, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai, là vi phạm pháp luật nên không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về hòa nhập cùng cộng đồng xã hội để có cơ hội làm lại cuộc đời, tiếp tục việc học dỡ dang của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp công bố bản cáo trạng thì Phan Phú P đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

[2] Đối chiếu lời khai bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại, cùng với tang vật đã thu giữ, phù hợp với kết luận điều tra của cơ quan Công an quận G, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.

Do đó, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Phan Phú P đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017.

[3] Lợi dụng sự mất cảnh giác của bị hại bị cáo đã lén lút lấy trộm tài sản rất táo bạo và liều lĩnh. Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được Pháp luật và Nhà nước bảo hộ. Mặt khác, còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội và tác động xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Chỉ vì muốn tiêu xài phục vụ cho những nhu cầu cá nhân của mình mà không phải thông qua lao động chân chính bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội, việc bị cáo chưa chiếm đoạt được tài sản là ngoài ý muốn của bị cáo. Vì vậy, việc xử lý bị cáo bằng biện pháp hình sự là hết sức cần thiết và đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giúp bị cáo có điều kiện học tập cải tạo lại mình sau này biết tôn trọng pháp luật và tôn trọng tài sản của người khác.

[4] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo một số tình tiết: Tại Cơ quan điều tra và qua diễn biến phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thật thà khai báo thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp nghiêm trọng, đã tích cực động viên gia đình bồi thường cho các bị hại và người liên quan, tài sản thu hồi trả lại cho bị hại để giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo phạm tội mang tính chất cơ hội bốc đồng, nhân thân bị cáo tốt chưa có tiền án tiền sự, bị cáo là sinh viên trường Đại học Công Nghiệp Thành phố H năm thứ 3 đang bảo lưu chương trình học cũng nên tạo điều kiện cho bị cáo tiếp tục con đường học tập làm lại cuộc đời.

[5] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, xét tính chất vụ án và bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử quyết định miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa hôm nay những bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt, nhưng qua hồ sơ thể hiện đã nhận lại tài sản bị mất và đã được bồi thường không yêu cầu gì khác nên tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử không đưa ra xem xét lại.

Đối với số tiền 4.820.000 đồng ông Phan Phú T thay bị cáo bồi thường cho các bị hại và người liên quan, tại phiên tòa hôm nay ông T vắng mặt nhưng qua hồ sơ thể hiện ông không yêu cầu bị cáo trả lại và đồng ý cho luôn bị cáo. Hội đồng xét xử nhận thấy đây là ý chí tự nguyện và không trái pháp luật nên ghi nhận.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) áo khoác màu đen phía trước bên ngực trái áo có ký hiệu “B”, phía sau áo có ký hiệu “BLVCK” “MISSING”; 01 điện thoại di động Iphone 8 Plus; 01 điện thoại di động Iphone 6; 01 thẻ ATM ngân hàng OCB số 3565627492209560; 01 thẻ ATM ngân hàng B. Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã ra quyết định trả lại cho Phan Phú P. Hội đồng xét xử xét thấy việc trả lại tài sản đó là đúng quy định của pháp luật và không ảnh hưởng đến nội dung vụ án, nên tại phiên tòa hôm nay không đưa ra xem xét lại.

- Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu IPhone 7 Plus 32 GB, màu đen, số sê ri: C39T28WYHG04 qua xác minh là tài sản riêng của bị hại Đào Diệp K, Cơ quan điều tra đã trả lại điện thoại trên cho anh K, 01 chiếc điện thoại di động hiệu SamSung Galaxy A12 128GB, màu xanh, số imei: 357026895076515/01 qua xác minh là tài sản của anh Nguyễn Vũ D Cơ quan điều tra Công an quận G đã trả lại điện thoại trên cho anh Nguyễn Vũ D, 01 bóp màu xám có chữ “baellerry” và 01 chiếc điện thoại di động hiệu Vivo V25e 128GB màu vàng, số imei: 860672067894118, qua xác minh là tài sản của anh Dương Văn K1 Cơ quan điều tra Công an quận G đã trả lại điện thoại trên cho anh K1, 01 thẻ ATM S1 số thẻ 9704 030xxxx71592 tên Trần D1, 01 túi vải màu xám đen có chữ “BASIC ELLE” là các tài sản của anh Trần D Cơ q điều tra Công an quận G đã trả lại cho anh Trần D . Hội đồng xét xử xét thấy việc trả lại các tài sản đó cho những bị hại là đúng quy định của pháp luật và không ảnh hưởng đến nội dung vụ án, nên tại phiên tòa hôm nay không đưa ra xem xét lại.

- Đối với số tiền 900.000 đồng thu giữ của P là tiền bị cáo có được từ việc trộm cắp mà có, lẽ ra tịch thu nộp ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, do ông Phan Phú T là cha ruột của bị cáo đã thay bị cáo bồi thường tất cả thiệt hại cho những bị hại và người liên quan và có yêu cầu xin nhận lại số tiền trên, Hội đồng xét xử nhận thấy yêu cầu đó không trái quy định pháp luật nên quyết định trả lại cho ông T.

[8] Đối với Nguyễn Minh T1, người đã mua lại chiếc điện thoại di động của Phan Phú P. Khi mua điện thoại trên, ông T1 không biết điện thoại do P trộm cắp mà có nên không có căn cứ để xử lý T1 về hành vi Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phan Phú P phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b,i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017;

Xử phạt bị cáo Phan Phú P 7 (bảy) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày tạm giữ, tạm giam 10/12/2022.

Áp dụng Điều 46, Điều 47, Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 1, điểm a,b,c khoản 2, khỏan 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Trả lại cho ông Phan Phú T 900.000 (Chín trăm ngàn) đồng thu giữ.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 06/PNK, ngày 06/01/2023 của Công an quận G) Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và Lệ phí, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008;

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

46
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 81/2023/HS-ST

Số hiệu:81/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về