Bản án về tội trộm cắp tài sản số 76/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 76/2022/HS-ST NGÀY 30/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30/3/2022 tại trụ sở Tòa án Nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 70/2022/HSST ngày 11/3/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2022/QĐXXST-HS ngày 18/3/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Đình C; Giới tính: Nam. Tên gọi khác: Lửa. Sinh năm: 1989; Tại: Tỉnh Đắk Lắk. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 5/12; Nghề nghiệp: Không; Nơi cư trú: Số xcv đường Đ, phường A, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Con ông: Vũ Đình A (đã chết); Con bà: Nguyễn Thị T, sinh năm: 1966. Bị cáo chưa có vợ con. Tiền sự: Không; Tiền án: 03 tiền án. Tại bản án số: 59/2012/HSST ngày 06/6/2012, bị Toà án Nhân dân huyện Cư Mgar xử phạt 01 năm 03 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản. Ngày 20/5/2014, bị Toà án Nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt 04 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma tuý theo bản án số: 118/2014/HSST. Ngày 26/12/2017, chấp hành xong hình phạt. Ngày 08/10/2019, bị Toà án Nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, xử phạt 01 năm 06 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số: 266/2019/HSST. Ngày 05/01/2021, chấp hành xong hình phạt tù.

Về Nhân thân: Ngày 07/11/2008, bị Tòa án Nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 344/HS-ST.

Bị cáo Vũ Đình C đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột từ ngày 22/12/2021 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Chị Nguyễn Thị Tú A (Vắng mặt).

Địa chỉ: Số vcx đường L, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

  1. Anh Nguyễn Đoàn Thiện N – Sinh năm: 1981 (Vắng mặt).

Trú tại: Số sc đường Đ, phường A, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

2. Anh Nguyễn Quốc B – Sinh năm: 1991 (Vắng mặt).

Trú tại: Số abv đường Q, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

3. Anh Đặng Xuân Q (Vắng mặt).

Trú tại: Số zxc đường Q, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vũ Đình C là người đã có nhiều tiền án, chưa được xoá án tích.

Khoảng 17 giờ ngày 7/12/2021, Vũ Đình C điều khiển xe môtô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen (không rõ biển số) của Vũ Thị Bích L (là em gái C) đi tìm nhà dân để trộm cắp tài sản. Khi C đi đến căn nhà của chị Nguyễn Thị Tú A (Địa chỉ: Số vcx đường L, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.) thấy cửa không khóa và không có người trông coi nên C dựng xe mô tô ngoài đường, đi vào trong phòng khách nhà chị Tú A trộm cắp 01 chiếc Laptop nhãn hiệu Dell màu đen và 01 Ipad màu trắng của chị Tú A. Sau đó khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, C mang chiếc Laptop nhãn hiệu Dell màu đen đến gặp anh Nguyễn Đoàn Thiện N (Trú tại: Số sc đường Đ, phường A, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk) hỏi anh N có mua Laptop cho con học online không, anh N không biết đây là tài sản do C trộm cắp mà có nên đồng ý mua với số tiền là 2.400.000 đồng. Sau đó C tiếp tục mang chiếc Ipad đến gặp anh Nguyễn Quốc B (Trú tại: Số abv đường Q, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk) để hỏi bán nhưng khi mở máy ra kiểm tra thấy bị hư nên C nói B đi sửa giúp. Sau đó anh B mang chiếc Ipad nói trên đến cho Đặng Xuân Q (Trú tại: Số zxc đường Q, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk) sửa máy Ipad hết 500.000 đồng. Sau đó, do không có tiền trả tiền sửa ipad nên C bán chiếc Ipad cho anh B với số tiền là 1.500.000 đồng. Anh B đưa thêm cho C số tiền là 1.000.000 đồng. C sử dụng 400.000 đồng để mua ma tuý của một nam thanh niên (chưa rõ nhân thân lai lịch), số tiền còn lại tiêu xài cá nhân hết.

Tại Bản kết luận định giá số 263/KL-HĐĐGTS ngày 29/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận:

- 01 máy tính sách tay nhãn hiệu Dell Inspiron 15, màn hình 15,6 inch, Core TM i5 – 7200U, CPU @ 2.5GHz, Ram 4GB, ổ cứng HDD, màu đen, đã qua sử dụng, trị giá: 10.500.000 đồng.

- 01 máy tính bảng nhãn hiệu Apple, Ipad Air 1, wifi, dung lượng 16GB, số Seri: DQVNQH5QFCM8, màu trắng, đã qua sử dụng, trị giá: 3.400.000 đồng.

Tổng trị giá tài sản trộm cắp là 13.900.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số 96/CT-VKS- HS ngày 11/3/2022, Viện kiểm sát Nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột đã truy tố bị cáo Vũ Đình C về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ Luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và Bản cáo trạng mà đại diện Viện kiểm sát đã công bố.

Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố. Đồng thời đề nghị HĐXX:

- Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Vũ Đình C mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

- Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 589 Bộ luật dân sự.

Đề nghị Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 máy tính sách tay nhãn hiệu Dell Inspiron màu đen và 01 máy tính bảng nhãn hiệu Apple, Ipad Air 1 màu trắng cho chị Nguyễn Thị Tú A.

Đề nghị Buộc Vũ Đình C bồi thường cho anh Nguyễn Đoàn Thiện N số tiền 2.400.000 đồng và bồi thường cho anh Nguyễn Quốc B số tiền 1.500.000 đồng.

Bị cáo không bào chữa và tranh luận gì đối với hành vi đã thực hiện, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến và khiếu nại về các quyết định và hành vi tố tụng đó. Do vậy, quyết định và hành vi tố tụng của Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo:

Căn cứ vào lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa và các tài liệu chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở để khẳng định: Vào khoảng 17 giờ 45 phút ngày 07/12/2021 tại số nhà vcx đường L, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, Vũ Đình C đã lén lút trộm cắp 01 máy tính sách tay nhãn hiệu Dell Inspiron 15 màu đen và 01 máy tính bảng nhãn hiệu Apple, Ipad Air 1 màu trắng của chị Nguyễn Thị Tú A. Tổng trị giá tài sản trộm cắp là 13.900.000 đồng. Bị cáo đã tái phạm nhưng tiếp tục phạm tội. Do vậy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

* Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

a)…

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

a)…

g) Tái phạm nguy hiểm.

…” [3] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bị hại và gây nên những ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được rằng tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật quan tâm B vệ, mọi hành vi xâm hại trái pháp luật đều bị trừng trị một cách thích đáng. Xong, xuất phát từ ý thức coi thường pháp luật và muốn có tiền tiêu xài, bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định thì mới phát huy được tác dụng giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự được áp dụng để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[5] Trong vụ án này còn có chị Vũ Thị Bích L là người cho Vũ Đình C mượn xe môtô (chưa rõ biển số), chị Ly không biết C dùng làm phương tiện đi phạm tội nên Cơ quan điều tra không tạm giữ chiếc xe mô tô và không đề cập xử lý đối với chị Ly là phù hợp.

Đối với anh Nguyễn Đoàn Thiện N và anh Nguyễn Quốc B là người mua máy tính sách tay nhãn hiệu Dell Inspiron màu đen và 01 máy tính bảng nhãn hiệu Apple Ipad Air, anh Đặng Xuân Q là người nhận sửa chữa chiếc máy tính bảng nhãn hiệu Apple Ipad Air, tại thời điểm nhận tài sản các anh không biết đây là tài sản do bị cáo trộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.

Đối với 01 nam thanh niên (chưa xác định được Nhân thân, lai lịch) là người bán ma tuý cho Vũ Đình C. Hiện Cơ quan điều tra chưa xác định được Nhân thân, lai lịch của đối tượng này. Do vậy, Cơ quan điều tra tách ra khỏi vụ án để tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

[6] Về tài sản bị thu giữ:

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã thu giữ và trả lại 01 máy tính sách tay nhãn hiệu Dell Inspiron màu đen và 01 máy tính bảng nhãn hiệu Apple, Ipad Air 1 màu trắng cho chị Nguyễn Thị Tú A. Xét việc trả lại các tài sản trên cho chủ sở hữu nhận sử dụng là phù hợp nên cần chấp nhận.

[7] Về bồi thường thiệt hại:

Quá trình điều tra, anh Nguyễn Đoàn Thiện N và anh Nguyễn Quốc B yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền mà các anh đã mua tài sản do bị cáo phạm tội mà có và đã bị thu hồi. Xét yêu cầu bồi thường là phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm và án phí Dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Áp dụng Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Đình C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

[2] Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; các điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Vũ Đình C 02 năm 09 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, ngày 22/12/2021.

[3] Về các biện pháp tư pháp:

Áp dụng khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 47, khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 584, Điều 586 và Điều 589 Bộ luật Dân sự.

- Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã trả lại: 01 máy tính sách tay nhãn hiệu Dell Inspiron màu đen và 01 máy tính bảng nhãn hiệu Apple, Ipad Air 1 màu trắng cho chị Nguyễn Thị Tú A.

- Buộc bị cáo bồi thường cho anh Nguyễn Đoàn Thiện N số tiền 2.400.000 đồng và bồi thường cho anh Nguyễn Quốc B số tiền 1.500.000 đồng.

* Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Vũ Đình C phải nộp 200.000đ án phí Hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí Dân sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 76/2022/HS-ST

Số hiệu:76/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:30/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về