Bản án về tội trộm cắp tài sản số 41/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KỲ ANH, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 41/2023/HS-ST NGÀY 30/05/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 05 năm 2023, tại Hội trường Ủy ban nhân dân xã Kỳ Hoa, thị xã Kỳ Anh xét xử công khai sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số 37/2023/TLST- HS ngày 11/05/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2023/QĐXXST-HS ngày 16/05/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn T Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam. Sinh ngày 09 tháng 02 năm 1989 tại xã Q, huyện Q, tỉnh Q. Nơi cư trú: Thôn Phù Lưu, xã Q, huyện Q, tỉnh Q. Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không. Trình độ văn hóa: Lớp 09/12. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Quần chúng. Con ông: Nguyễn Thanh K; Sinh năm: 1954. Con bà: Đặng Thị N; Sinh năm: 1956. Bố mẹ đều là lao động tự do hiện trú tại thôn Phù Lưu, xã Q, huyện Q, tỉnh Q. Anh, chị, em ruột: Có 03 người, bị cáo là con thứ hai. Vợ, con: Chưa có.

Tiền án: Ngày 24/4/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Q xử phạt 12 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản, theo Khoản 1, Điều 138 BLHS 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 tại Bản án số 14/2015/HSST ngày 24/4/2015. Ngày 26/02/2015, trong khi đang điều tra vụ nêu trên thì Nguyễn Văn T lại tiếp tục phạm tội và bị xử phạt 60 tháng tù về tội Cướp tài sản theo Khoản 1, Điều 133 BLHS 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, tại Bản án số 137/2015/HSPT ngày 04/11/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Q; tổng hợp hình phạt của cả 02 bản án buộc Nguyễn Văn T phải chấp hành hình phạt 72 tháng tù giam. Ngày 03/09/2020, đã chấp hành xong hình phạt tù nhưng chưa được xóa án tích lại phạm tội mới nêu trên. Tiền sự: Không. Quá trình nhân thân: Ngày 21/12/2007, bị Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Q xử phạt 12 tháng tù giam về tội “Cướp giật tài sản”, theo Khoản 1, Điều 136 BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, tại Bản án số 56/2007/HSST, ngày 21/12/2007; đã chấp hành xong bản án (không xác định án tích vì khi phạm tội dưới 18 tuổi). Ngày 19/8/2009, bị Công an huyện Quảng Trạch, tỉnh Q xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi “Cố ý gây thương tích” đã chấp hành xong quyết định xử phạt và đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính. Bị cáo bị bắt tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh kể từ ngày 24/04/2023, đến ngày 09/5/2023 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh cho đến nay(Có mặt).

* Người bị hại:

1. Chị: Hg Thị Ngọc L, sinh năm 1984; nghề nghiệp: Lao động tự do; Điaạ chỉ: tổ dân phố 6, phường Đồng P, T phố H, tỉnh Q(Vắng mặt).

2. Chị: Lê Thị H, sinh năm 1995; nghề nghiệp: Lao động tự do; trú tại: Xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa(Vắng mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh: Trần Đức C; sinh năm 1995; nghề nghiệp: Lao động tự do; địa chỉ: Xã Quảng Tiến, huyện Quảng Trạch, tỉnh Q(Vắng mặt).

2. Anh: Nguyễn Văn H; sinh năm 1985; nghề nghiệp: Lao động tự do; địa chỉ: Thôn Phù Lưu, xã Q, huyện Q, tỉnh Q(Có mặt).

* Người tố giác: Anh: Trần Đình D; sinh năm 1985; địa chỉ: Tổ dân phố Tâ, phường K, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh(Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Kể từ ngày 20/12/2022 đến ngày 24/12/2022, Nguyễn Văn T đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản để trong xe ô tô ở trên đỉnh Đèo Ngang, thuộc địa phận xã Kỳ Nam, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, cụ thể như sau:

Lần Thứ nhất: Khoảng 15 giờ ngày 20/12/2022, Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô BKS: 73E1-X (xe thuộc quyền sở hữu của anh trai là Nguyễn Văn H, T tự ý lấy đi) từ Q đi ra thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh theo đường bộ lên đỉnh Đèo Ngang. Khi đi qua đỉnh Đèo Ngang, thuộc địa phận xã Kỳ Nam, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, Nguyễn Văn T thấy một chiếc xe ô tô, màu trắng, BKS: 73A-X dừng bên lề đường nhưng không có người trông coi nên nảy sinh ý định lấy trộm tài sản ở trong xe . Sau khi quan sát thấy cửa phía trước bên phải của xe ô tô kéo xuống khoảng 30cm, Nguyễn Văn T đã chui một nửa người vào trong xe ô tô lấy 02 chiếc túi xách để ở gần ghế lái và 01 chiếc túi xách để ở hàng ghế phía sau, rồi điều khiển xe mô tô chạy về hướng tỉnh Q. Khi đi được khoảng 01km, Nguyễn Văn T dừng xe lại và đổ tất cả các tài sản trong 03 chiếc túi xách trộm cắp được xuống đất để kiểm tra thì thấy có 02 chiếc nhẫn kim loại màu vàng; 02 chuỗi vòng hạt đeo tay; 6.800.000đ tiền mặt; 01 giấy phép lái xe và 01 căn cước công dân đều mang tên Hg Thị Ngọc L. Nguyễn Văn T lấy 02 chiếc nhẫn kim loại màu vàng; 02 chuỗi vòng hạt đeo tay và 6.800.000đ tiền mặt, còn giấy tờ tùy thân và 03 chiếc túi xách thì bỏ lại ở bụi cây bên đường trên đỉnh đèo rồi đi về. Khi về nhà, Nguyễn Văn T cất 02 chuỗi vòng hạt ở tủ trong phòng khách; sử dụng số tiền 6.800.000đ để chi tiêu cá nhân; còn 02 chiếc nhẫn kim loại màu vàng, Nguyễn Văn T để ở trong túi quần và bị rơi mất lúc nào không biết.

Ba chiếc túi xách chứa 02 chiếc nhẫn kim loại màu vàng; 02 chuỗi vòng hạt đeo tay; 6.800.000đ tiền mặt và các giấy tờ tùy thân mà Nguyễn Văn T trộm cắp là của chị Hg Thị Ngọc L, sinh năm 1984, trú tại tổ dân phố 6, phường Đồng P, thành phố Đồng Hới, tỉnh Q để ở trong xe ô tô đi ngắm cảnh thì bị mất. Theo kết quả định giá của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự UBND thị xã Kỳ Anh thì 02 chiếc nhẫn kim loại màu vàng là vàng 24K, trọng lượng mỗi chiếc là 1,875gam (0,5 phân), trị giá 5.400.000đ; 02 chuỗi vòng hạt đeo tay và 03 chiếc túi xách trị giá không đáng kể, còn các giấy tờ tùy thân không tính được giá trị bằng tiền. Tổng giá trị tài sản Nguyễn Văn T trộm cắp của chị Hg Thị Ngọc L là 12.200.000đ.

Lần Thứ hai: Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 24/12/2022, trên đường đi làm về, Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô BKS: 73E1-X (xe thuộc quyền sở hữu của anh trai là Nguyễn Văn H, T tự ý lấy đi) đi theo đường bộ lên Đèo Ngang. Khi đi qua đỉnh Đèo Ngang, thuộc địa phận xã Kỳ Nam, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, thấy một chiếc xe ô tô, màu đỏ BKS: 36A-X dừng bên lề đường nhưng không có người trông coi nên Nguyễn Văn T dừng xe lại và lấy một viên đá bên đường (viên đá có đường kính khoảng 15cm, có góc cạnh nhọn) đập vỡ kính cửa phía trước bên phải của xe ô tô, rồi chui một nửa người qua cửa kính bị đập vỡ vào trong xe ô tô lấy 01 chiếc ba lô màu xanh rêu để ở hàng ghế phía sau, rồi điều khiển xe mô tô đi về. Khi đi được khoảng 01km, Nguyễn Văn T dừng xe lại mở ba lô ra kiểm tra thì thấy 01 chiếc máy tính xách tay hiệu HUAWEI, màu xám, kèm theo bộ sạc và con chuột không dây của máy tính. Đến ngày 25/12/2022, Nguyễn Văn T đưa chiếc máy tính kèm theo bộ sạc và con chuột không dây đến bán cho anh Trần Đức C, ở xã Quảng Tiến, huyện Quảng Trạch, tỉnh Q được 3.000.000đ lấy tiền chi tiêu cá nhân. Khi bán máy tính, Nguyễn Văn T nói dối là máy tính của mình nên anh Trần Đức C không biết tài sản do trộm cắp mà có.

Chiếc máy tính xách tay, hiệu Huawei, màu xám, model KLVD-WFH9, số seri J8GPM21C17000966, kèm theo bộ sạc và con chuột không dây mà Nguyễn Văn T trộm cắp là của chị Lê Thị H, sinh năm 1995, trú tại xã Thọ Vực, huyện T, tỉnh Thanh Hóa để ở trong xe ô tô để đi ngắm cảnh thì bị mất. Theo kết quả định giá của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự UBND thị xã Kỳ Anh thì chiếc máy tính xách tay và các phụ kiện đi kèm mà Nguyễn Văn T trộm cắp của chị Lê Thị H trị giá 12.800.000đ; còn phần kính xe ô tô BKS: 36A-X mà Nguyễn Văn T đập vỡ gây thiệt hại 1.200.000đ.

Với hành vi trên, Cáo trạng số 41/CT - VKS-TXKA ngày 10 tháng 05 năm 2023, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Kỳ Anh đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội“Trộm cắp tài sản ”, theo quy định tại Khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa;

Bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu và nhất trí với quyết định truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kỳ Anh vẫn giữ nguyên quyết định truy tố Nguyễn Văn T về tội“Trộm cắp tài sản”, và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 1, Điều 173; Điểm s, Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điểm g, Điểm h Khoản 1 Điều 52, Điều 38, Bộ luật Hình sự xử phạt; Nguyễn Văn T mức án từ 30-36 tháng tù. Về trách nhiệm Dân sự và vật chứng: Không. Về biện pháp tư pháp: Căn cứ Điểm b, Khoản 1, Điều 47, Bộ luật Hình sự; Điểm b, Khoản 2, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự. Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền thu lợi bất chính từ bị cáo Nguyễn Văn T: 9.800.000đ. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 3, Khoản 1 Điều 21; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 và mục A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án, ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội; xử buộc bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, T khẩn khai báo, nên xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Kỳ Anh, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kỳ Anh, điều tra viên, kiểm sát viên quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, không có ý kiến gì khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo trình tự thủ tục luật định, hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản sự việc, phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, biên bản kiểm tra đồ vật, tài liệu và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do đó có đủ cơ sở kết luận: Kể từ ngày 20/12/2022 đến ngày 24/12/2022, Nguyễn Văn T đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản để trong xe ô tô tại đỉnh Đèo Ngang, thuộc địa phận xã Kỳ Nam, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, với tổng trị giá tài sản là 25.000.000đ, trong đó: Ngày 20/12/2022, Nguyễn Văn T đã lấy trộm 03 chiếc túi xách bên trong có 02 chiếc nhẫn vàng, 02 chuỗi vòng hạt đeo tay; 6.800.000đ và các giấy tờ tùy thân không tính được bằng tiền của chị Hg Thị Ngọc L, với tổng giá trị tài sản trộm cắp là 12.200.000đ và ngày 24/12/2022, Nguyễn Văn T đã dùng đá đập vỡ kính xe ô tô và lấy trộm 01 chiếc máy tính xách tay hiệu HUAWEI, kèm theo bộ sạc và con chuột không dây của chị Lê Thị H, trị giá 12.800.000đ. Sau khi lấy trộm được tài sản, Nguyễn Văn T đã bán chiếc máy tính xách tay cho Trần Đức C với giá 3.000.000đ, cùng với số tiền mặt trộm cắp được để chi tiêu cá nhân.

Với hành vi nêu trên Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh đã truy tố và đề nghị Tòa án thị xã Kỳ Anh đưa ra xét xử bị cáo Nguyễn Văn T về tội: “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại Khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật không có gì oan sai.

[3]. Đánh giá tính chất vụ án là ít nghiêm trọng, lỗi trong vụ án này là lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của công dân, bị cáo đã có hành vi lén lút trộm cắp tài sản, mục đích bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự an toàn xã hội gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân.

Trong vụ án này chỉ có một mình bị cáo thực hiện hành vi.

[4]. Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo không vi phạm tình tiết định khung nên chỉ bị xét xử ở Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm Hình sự: Ngày 24/4/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Q xử phạt 12 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 26/02/2015, trong thời gian điều tra vụ án nêu trên thì Nguyễn Văn T lại tiếp tục phạm tội và bị xử phạt 60 tháng tù về tội “Cướp tài sản” theo Khoản 1, Điều 133 Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, tại Bản án số 137/2015/HSPT ngày 04/11/2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Q; tổng hợp hình phạt của cả 02 bản án buộc Nguyễn Văn T phải chấp hành hình phạt 72 tháng tù giam. Ngày 03/09/2020, đã chấp hành xong hình phạt tù nhưng chưa được xóa án tích lại phạm tội mới nên phải chịu tình tiết tăng nặng là“Tái phạm”, và hành vi phạm tội lần này có 02 lần bị cáo phạm tội riêng biệt và tài sản 02 lần có trị giá trên 2.000.000đ nên phải chịu tình tiết tăng nặng“Phạm tội 02 lần trở lên” được qui định tại các Điểm h, Điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo T khẩn khai báo; có bố đẻ tham gia quân đội được tặng thưởng Huân chương chiến sỷ vẻ vang, cùng Huy hiệu, kỷ niệm chương. Những tình tiết giảm nhẹ được qui định tại Điểm s, Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6]. Sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cũng như lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thị Xã Kỳ Anh là có căn cứ phù hợp với tính chất mức độ hành vi mà bị cáo đã gây ra, Hội đồng xét xử xét thấy; Bản thân bị cáo Nguyễn Văn T ngày 24/4/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Q xử phạt 12 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản. Ngày 26/02/2015, trong khi đang điều tra vụ nêu trên thì Nguyễn Văn T lại tiếp tục phạm tội và bị xử phạt 60 tháng tù về tội Cướp tài sản; tổng hợp hình phạt của cả 02 bản án buộc Nguyễn Văn T phải chấp hành hình phạt 72 tháng tù giam, đã chấp hành xong hình phạt tù nhưng chưa được xóa án tích lại phạm tội mới. Xét nhân nhân thân: Ngày 21/12/2007, bị Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Q xử phạt 12 tháng tù giam về tội “Cướp giật tài sản”, đã chấp hành xong bản án (không xác định án tích vì khi phạm tội dưới 18 tuổi). Ngày 19/8/2009, bị Công an huyện Quảng Trạch, tỉnh Q xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi “Cố ý gây thương tích”. Ngoài ra bị cáo còn có hành vi đập vỡ kính xe ô tô của bị hại Lê Thị H gây thiệt hại 1.200.000đ, tuy hành vi không cấu T tội phạm, nhưng đây cũng là tình tiết xem xét khi áp dụng mức án đối với bị cáo. Như vậy cần khẳng định rằng bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội liều lĩnh, mang tính hệ thống, thường xuyên và liên tục, chứng tỏ bị cáo không ăn năn hối cải và coi thường kỷ cương pháp luật nên phải xử lý nghiêm minh. Cần xử phạt bị cáo mức án trên mức khởi điểm mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị mới đủ nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi cuộc sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

* Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy; bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền.

Đối với anh Nguyễn Văn H là chủ sở hữu xe mô tô BKS 73E1-X mà Nguyễn Văn T dùng làm phương tiện phạm tội, nhưng anh Nguyễn Văn H không biết T sử dụng vào việc phạm tội nên không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Đối với Trần Đức C, người mua chiếc máy tính xách tay do Nguyễn Văn T trộm cắp, nhưng khi mua C không biết tài sản do phạm tội mà có nên không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Đối với hành vi của Nguyễn Văn T đập vỡ kính xe ô tô của bị hại Lê Thị H gây thiệt hại 1.200.000đ, tài sản bị hư hỏng dưới 2.000.000 đồng, nên hành vi không cấu T tội phạm, Công an thị xã Kỳ Anh đã xử phạt vi phạm hành chính.

[7]. Về vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra Công an thị xã Kỳ Anh đã thu giữ các vật chứng gồm: Thu giữ tại nhà Nguyễn Văn T 01 chiếc vòng gồm 14 hạt gỗ màu đỏ nâu, mỗi hạt có đường kính 01 cm được đục lỗ ở giữa, dùng một sợi dây màu đỏ luồn liên tiếp tạo T chuỗi hạt; 01 chiếc vòng gồm 18 hạt gỗ màu nâu sẫm, mỗi hạt có đường kính 0,5 cm được đục lỗ ở giữa, dùng một sợi dây co dãn luồn liên tiếp tạo T chuỗi hạt; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Jupiter màu đen, BKS: 73E1-X (xe thuộc quyền sở hữu của anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1985 trú tại xã Q, huyện Q, tỉnh Q). Thu giữ của Trần Đức C 01 chiếc ba lô màu xanh rêu, 01 chiếc máy tính xách tay hiệu Huawei, màu xám, model KLVD-WFH9, số seri J8GPM21C17000966, kèm theo bộ sạc và con chuột không dây. Thu giữ tại hiện trường vụ án trên đỉnh Đèo Ngang 03 chiếc túi xách, trong đó 01 chiếc túi vải thổ cẩm nhiều màu sắc, có dây đeo, kích thước 30x40cm; 01 chiếc túi xách màu đỏ sẫm, kích thước 15x20cm, phía ngoài túi có dòng chữ “LV”, bên trong túi có căn cước công dân và giấy phép lái xe mang tên Hg Thị Ngọc L; 01 túi xách màu trắng kích thước 15x20cm, có dây đeo bằng kim loại, mặt trước của túi có dòng chữ LV.

02 chiếc vòng hạt bằng gỗ và 03 chiếc túi xách, quá trình điều tra đã trả lại cho chị Hg Thị Ngọc L là chủ sở hữu. Chiếc máy tính xách tay cùng các phụ kiện kèm theo, quá trình điều tra trả lại cho chị Lê Thị H là chủ sở hữu. Xe mô tô BKS: 73E1-X quá trình điều tra đã trả lại cho anh Nguyễn Văn H, do anh H không có lỗi trong việc Nguyễn Văn T sử dụng làm phương tiện phạm tội. Nên Hội đồng xét xử miễn xét.

* Về trách nhiệm Dân sự: Sau khi nhận lại tài sản, các bị hại Hg Thị Ngọc L và Lê Thị H không yêu cầu bồi thường thiệt hại; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Trần Đức C cũng không yêu cầu Nguyễn Văn T trả lại số tiền 3.000.000đ tiền mua chiếc máy tính xách tay trộm cắp. Nên Hội đồng xét xử miễn xét.

* Về biện pháp tư pháp: Đối với số tiền bị cáo hưởng lợi từ việc bán máy tính cho anh Trần Đức C là 3.000.000đ(Ba triệu đồng) mà anh C không có yêu cầu trả lại và số tiền 6.800.000đ(Sáu triệu tám trăm nghìn đồng) tiền mặt mà bị cáo đã trộm cắp của bị hại là chị Hg Thị Ngọc L mà chị cũng không yêu cầu bị cáo trả lại. Đây là những số tiền bị cáo thu lợi bất chính và đã dùng tiêu xài cá nhân, do đó cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 173; Điểm s, Khoản 1, Khoản 2, Điều 51, Điểm g, Điểm h Khoản 1 Điều 52, Điều 38, Bộ luật Hình sự;

Căn cứ Điểm b, Khoản 1, Điều 47, Bộ luật Hình sự; Điểm b, Khoản 2, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự;

Căn cứ Khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333, Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 3, Khoản 1 Điều 21; Điểm a, Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 và mục A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án, ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, tuyên xử;

1. Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Văn T phạm tội:“Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt, bị cáo Nguyễn Văn T 34(Ba tư) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam là ngày 24/04/2023.

3. Về hình phạt bổ sung; vật chứng; trách nhiệm Dân sự: Không.

* Về biện pháp tư pháp: Tịch thu ở bị cáo Nguyễn Văn T số tiền thu lợi bất chính 9.800.000đ(Chín triệu tám trăm nghìn đồng) sung ngân sách Nhà nước.

4. Về án phí: Xử buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 đồng(Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt, được quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt, được quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 41/2023/HS-ST

Số hiệu:41/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Kỳ Anh - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về