Bản án về tội trộm cắp tài sản số 37/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 37/2022/HS-ST NGÀY 07/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 07 tháng 3 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 07/2022/HSST ngày 11 tháng 01 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 02 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 35/2022/HSST-QĐ ngày 22 tháng 02 năm 2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn T, sinh năm 1990; tại Đồng Nai; nơi đăng ký thường trú: Ấp NH, xã Tây Hòa, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai; nơi cư trú: Không có nơi ở nhất định; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn D, sinh năm 1969 và bà Trần Thị P, sinh năm 1965; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án số 203/2015/HSST ngày 12/11/2015 (Đã được xóa án tích); bị cáo bị bắt ngày 11/11/2021 (Có mặt).

- Bị hại:

1/ Ông Lê Công Th, sinh năm 1983.

Trú tại: Ấp NH, xã TH, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai (Vắng mặt).

2/ Ông Huỳnh Ngọc T1, sinh năm 1983.

Trú tại: Ấp NH, xã TH, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn T là người nghiện ma túy sống lang thang không có nghề nghiệp. Để có tiền mua ma túy sử dụng, trong thời gian từ tháng 9/2021 đến tháng 10/2021 trên địa bàn xã Tây Hòa, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn T đã thực hiện 02 vụ trọm cắp tài sản, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 14 giờ ngày 22/9/2021, T lén lút leo qua hàng rào nhà ông Lê Công Th ngụ tại: Số 15/1 ấp Nhân Hòa, xã Tây Hòa, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai để T kiếm tài sản để trộm cắp thì phát hiện 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Click, biển số: 60V9-8009 dựng ở sân sau nhà, trên xe gắn sẵn chìa khóa nên T lén lút dắt xe mô tô này qua đường rẫy bên hông nhà ông Thành và đem xe cất giấu tại vườn điều bên đường Tây Hòa 03 thuộc ấp Lộc Hòa, xã Tây Hòa, huyện Trảng Bom. Sau đó, T được một người bạn tên “Thúi” (Không rõ họ tên, địa chỉ) cho số điệm thoại của một người không rõ họ tên, địa chỉ có nhu cầu mua xe, đồng thời Thúi cho T mượn 01 sim điện thoại (Chưa rõ số sim) của mình để liên lạc với người mua xe. Đến ngày 23/9/2021, T gắn sim mà Thúi cho mượn vào điện thoại hiệu Nokia màu đen của mình để gọi đến người mua xe và thỏa thuận giá 2.500.000 đồng, sau đó T điều khiển xe mô tô nói trên đến khu vực ấp Hưng Long, xã Hưng Thịnh, huyện Trảng Bom bán xe cho người này được 2.500.000 đồng.

Vụ thứ hai: Vào khoảng 02 giờ ngày 04/10/2021, T trèo bờ rào đi vào sân sau nhà ông Huỳnh Ngọc T1 thuộc ấp Nhân Hòa, xã Tây Hòa, huyện Trảng Bom để T kiếm tài sản trộm cắp thì phát hiện 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Super Dream biển số: 60M8-6379 dựng phía sau nhà bếp, trên xe gắn sẵn chìa khóa, T lén lút dắt xe mô tô này đem đi cất giấu trong vườn điều gần đó, T tiếp tục liên lạc với người mua xe Honda Click như trên để thỏa thuận mua bán xe mô tô nhãn hiệu Honda Super Dream biển số: 60M8-6379 đến khu vực ngã ba Hưng Long, xã Hưng Thịnh, huyện Trảng Bom để bán xe cho người mua với giá 3.000.000 đồng.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen.

Theo Bản kết luận định giá tài sản ngày 20/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân huyện Trảng Bom kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Click, biển số 60V9-8009, số máy 0008059, số khung 308027 trị giá 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng); 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Super Dream biển số 60M8-6379, số máy 0183259, số khung 183234 trị giá 14.500.000 đồng (Mười bốn triệu năm trăm ngàn đồng). Tổng giá trị tài sản cần định là 22.500.000 đồng (Hai mươi hai triệu năm trăm ngàn đồng).

Tại Cáo trạng số: 26/CT-VKS-TB ngày 06/01/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Nguyễn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Nguyễn T với mức án từ 01 (Một) năm đến 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo T không nộp thêm tài liệu chứng cứ nào khác và đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Bị cáo T không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát và lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Trảng Bom, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2]. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai nhận của bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 22/9/2021, tại ấp Nhân Hòa, xã Tây Hòa, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, bị cáo Nguyễn T lén lút trộm cắp tài sản 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Click biển số 60V9-8009 trị giá 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng) của ông Lê Công Th. Ngoài ra ngày 04/10/2021, tại ấp Nhân Hòa, xã Tây Hòa, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai bị cáo Nguyễn T tiếp tục lén lút trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Super Dream biển số 60M8-6379 trị giá 14.500.000 đồng (Mười bốn triệu năm trăm ngàn đồng) của ông Huỳnh Ngọc T1. Tổng giá trị tài sản mà bị cáo T chiếm đoạt là 22.500.000 đồng (Hai mươi hai triệu năm trăm ngàn đồng). Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản của người khác, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội vào các ngày 22/9/2021 và 04/10/2021 nên cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử khi lượng hình cũng cần xem xét đến việc bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo để xem xét giảm nhẹ khi quyết định hình phạt thể hiện sự nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta.

[4]. Về vật chứng vụ án: Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Click, biển số 60V9-8009 và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Super Dream biển số 60M8-6379 do bị cáo đã bán cho một người không rõ họ tên, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện không thu hồi được. Đối với 01 sim điện thoại mà T sử dụng để liên lạc giao dịch mua bán 02 xe mô tô trọm cắp được do bị cáo không nhớ số sim đồng thời đây là sim mà Thúi cho T mượn, sau khi bán xe xong thì T đã trả lại cho Thúi nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện không thu hồi được. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia do bị cáo T sử dụng vào việc liên lạc bán tài sản trộm cắp được.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Lê Công Th yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng), bị hại ông Huỳnh Ngọc T1 yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 18.000.000 đồng (Mười tám triệu đồng). Tại phiên tòa bị cáo đồng ý bồi thường cho các bị hại nên căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 584, Điều 585, Điều 586 và Điều 589 Bộ luật Dân sự 2015 buộc bị cáo phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho ông Lê Công Th số tiền là 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng) và bồi thường thiệt hại về tài sản cho ông Huỳnh Ngọc T1 số tiền là 18.000.000 đồng (Mười tám triệu đồng).

[5]. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[6]. Đối với người tên “Thúi” cho bị cáo T số điện thoại và cho mượn sim điện thoại liên lạc với người mua xe đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau. Đối với người (không rõ họ tên, địa chỉ) mua tài sản do bị cáo T phạm tội mà có đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/11/2021.

2. Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia (Hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 20/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom).

3. Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 584, Điều 585, Điều 586 và Điều 589 Bộ luật Dân sự 2015:

- Buộc bị cáo Nguyễn T phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho ông Lê Công Th số tiền 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng).

- Buộc bị cáo Nguyễn T phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho ông Huỳnh Ngọc T1 số tiền 18.000.000 đồng (Mười tám triệu đồng).

- Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án chậm thi hành số tiền gốc nêu trên thì hàng tháng phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền chậm trả.

4. Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14: Buộc bị cáo Nguyễn T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.300.000 đồng (Một triệu ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

5. Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Riêng bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 37/2022/HS-ST

Số hiệu:37/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về