Bản án về tội trộm cắp tài sản số 36/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QL, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 36/2022/HS-ST NGÀY 13/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện QL, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 24/2022/TLST-HS, ngày 16 tháng 3 năm 2022; theo Quyết định hoãn phiên tòa số 12/2022/HSST-QĐ ngày 29 tháng 3 năm 2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đình N (tên gọi khác: Không); sinh ngày 06/05/2001; nơi sinh: Tại huyện QL, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Xóm 16, xã QL1, huyện QL, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt N; đoàn thể: Không; con ông: Nguyễn Đình H, sinh năm 1976 và bà: Trần Thị S sinh năm 1979; vợ, con: chưa có; tiền sự: Không; Tiền án:

- Ngày 16/01/2020, N bị Tòa án nhân dân huyện QL, tỉnh Nghệ An xử phạt 09 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”;

- Ngày 28/01/2021, N bị Tòa án nhân dân huyện QL, tỉnh Nghệ An xử phạt 12 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”; chấp hành xong hình phạt tù từ ngày 13/10/2021.

Nhân thân:

- Ngày 27/8/2018, N bị Tòa án nhân dân huyện QL, tỉnh Nghệ An xử phạt 06 tháng tù, cho hưởng án treo, về tội: “Trộm cắp tài sản”;

- Ngày 22/01/2019, N bị Tòa án nhân dân huyện Xuân Trường, tỉnh N Định xử phạt 06 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản”;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/01/2022 cho đến nay; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo N: Ông Phạm Văn H- Là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm TGPL Nhà nước tỉnh Nghệ An- Chi nhánh TGPL số 1; “vắng mặt”- có đơn xin xét xử vắng mặt;

Bị hại:

1. Anh  Lê Văn T, sinh năm 1968; “vắng mặt”- Có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Chị Hồ Thị N, sinh năm 1975 “vắng mặt”;

Cùng nơi cư trú: Khối 9, thị trấn C, huyện QL, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ, ngày 28/01/2022, Nguyễn Đình N đến nhà anh  Lê Văn T, sinh năm 1968, trú tại khối 9, thị trấn Cầu Giát, huyện QL, thấy cổng nhà khóa, cửa chính mở và bật sáng điện. N trèo qua bờ tường lẻn vào phòng khách nhà anh Tiến lấy trộm 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37F rồi đi ra ngoài. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, N đến nhà chị Hồ Thị N, sinh năm 1975, trú tại, khối 9, thị trấn Cầu Giát, huyện QL, thấy cánh cổng phụ không đóng, của chính mở và tắt điện. N đi theo cổng phụ vào nhà chị Nhâm lấy trộm 01 chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu DELL màu đen; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Realme màu xanh và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3S màu đỏ rồi ra về.

Đến khoảng 14 giờ ngày 29/01/2022, Nguyễn Đinh N đem chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Realme đến cửa hàng cầm đồ Bá Ngọc thuộc thôn 3, xã Quỳnh Giang, huyện QL cầm cố lấy số tiền 1.200.000 đồng. Đến 17 giờ cùng ngày, nhận thấy hành vi của mình bị phát hiện nên N đã đến của hàng cầm đồ Bá Ngọc chuộc lại chiếc điện thoại di động Realme màu xanh đã cầm cố trước đó và đến Cơ quan Công an đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 75/KL-TCKH ngày 31/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự- UBND huyện QL kết luận: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37F màu vàng, bị vỡ nát một phần màn hình mà N trộm cắp của anh  Lê Văn T có giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là 300.000 đồng. Các tài sản mà N trộm cắp của chị Hồ Thị N, gồm: 01 chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu DELL, màu đen đã cũ, số Service tag (S/N): J20YYD2, có giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là 3.500.000 đồng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Realme màu xanh, kiểu máy C11 đã cũ, có giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là 1.500.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động OPPO A3S màu đỏ, bị vỡ nát một phần màn hình, có giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là 1.300.000 đồng.

Như vậy, tổng giá trị tài sản mà Nguyễn Đình N chiếm đoạt trong ngày 28/01/2022 là 6.600.000đ (sáu triệu sáu trăm nghìn đồng).

- Vật chứng thu giữ và xử lý vật chứng vụ án: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37F màu vàng, bị vỡ nát một phần màn hình; 01 chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu DELL, màu đen đã cũ; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Realme màu xanh, kiểu máy C11 đã cũ và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3S màu đỏ, bị vỡ nát một phần màn hình. Đây là số tài sản hợp pháp của các bị hại, bị Nguyễn Đình N chiếm đoạt. Vì vậy, Cơ quan CSĐT Công an huyện QL đã ra quyết định trả lại cho các chủ sỡ hữu.

- Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại anh  Lê Văn T và chị Hồ Thị N đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, nay không ai có yêu cầu bị cáo bồi thường gì.

Bản cáo trạng số 42/CT-VKS-QL, ngày 15/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện QL truy tố bị cáo Nguyễn Đình N, về tội:"Trộm cắp tài sản", theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện QL vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị HĐXX áp dụng: Điểm g Khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 BLHS năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đình N từ 24 đến 30 tháng tù. Không phạt tiền bổ sung vì gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo.

- Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại anh  Lê Văn T và chị Hồ Thị N đã nhận lại tài sản, nay không ai yêu cầu bị cáo bồi thường gì nên miễn xét.

- Về án phí HSST: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 – 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo N phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Người bào chữa cho bị cáo, ông Phạm Văn H có bài phát biểu:

Nhất trí với bản Cáo trạng về tội danh, điều luật áp dụng và các tình tiết giảm nhẹ.

Bị cáo thuộc hộ cận nghèo, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 khoản 2 Điều 51 BLHS, đó là: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đầu thú nên đề nghị HĐXX: Căn cứ vào: Điểm g Khoản 2 Điều 173: điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình N ở mức án thấp nhất của khung hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị cũng đủ sức răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo Nguyễn Đình N xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Quỳnh Lưu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện QL, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa cho bị cáo và bị hại không có người nào có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung vụ án:

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Đình N khai nhận: Vào tối ngày 28/01/2022, bị cáo đã lén lút trộm cắp tài sản của anh  Lê Văn T, trú tại khối 9, thị trấn Cầu Giát, huyện QL, tỉnh Nghệ An là 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPOPO A37F, màu xám và lén lút trộm cắp tài sản của chị Hồ Thị N, trú tại khối 9, thị trấn Cầu Giát, huyện QL là 01 chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu DELL, màu đen; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Realme màu xanh và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPOPO A3S, màu đỏ. Tổng giá trị các tài sản tại thời điểm bị chiếm đoạt là 6.600.000đ (sáu triệu sáu trăm nghìn đồng).

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai có tại hồ sơ; phù hợp với thời gian, địa điểm, số lượng tài sản người bị hại khai báo bị mất; sự phù hợp, thống nhất của các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ kết luận: Bị cáo Nguyễn Đình N đã phạm vào tội:“Trộm cắp tài sản”. Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý; khi thực hiện tội phạm, bị cáo có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đủ yếu tố cấu thành tội:“Trộm cắp tài sản”; tội phạm và hình phạt quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS; đúng như Cáo trạng truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đó là: Khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS; đầu thú, là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.

HĐXX nhận thấy: Vụ án có tính chất nghiêm trọng; do lười lao động nhưng ham ăn chơi nên chỉ trong một đêm mà bị cáo đã thực hiện nhiều hành vi trộm cắp tài sản của 02 gia đình để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội gây tâm lý hoang mang trong cộng đồng dân cư. Bị cáo có nhân thân xấu; đã bị xét xử nhiều lần về tội trộm cắp tài sản và đã được giáo dục, cải tạo nhiều lần nhưng không chịu từ bỏ thói hư tật xấu. Vì vậy, cần xử phạt tù cách ly bị cáo khỏi xã hôi một thời gian hợp lý để giáo dục, cải tạo và răn đe phòng ngừa chung. Tuy nhiên cũng nên giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, vì khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là thấu tình, đạt lý.

[5] Về hình phạt bổ sung: Không phạt tiền bổ sung vì gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo.

[6] Đối với Ngô Quang Nhật, là người đã nhận cầm cố chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Realme màu xanh do N trộm cắp mà có. Tuy nhiên, quá trình điều tra xác định Nhật không hứa hẹn trước và cũng không biết đó là tài sản do phạm tội mà có nên không phải chịu trách nhiệm.

[7]. Về vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện QL đã giao trả cho các chủ sở hữu 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37F màu vàng; 01 chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu DELL, màu đen đã cũ; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Realme màu xanh, kiểu máy C11 đã cũ và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3S màu đỏ là có căn cứ, đúng pháp luật.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại anh  Lê Văn T, chị Hồ Thị N đã nhận lại tài sản, nay không ai yêu cầu bị cáo bồi thường gì nên miễn xét.

[8]. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Đình N phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đình N 24 (hai mươi bốn) tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản”; thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam (ngày 30/01/2022).

2. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Đình N phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 36/2022/HS-ST

Số hiệu:36/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về