Bản án về tội trộm cắp tài sản số 30/2022/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH THUỶ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 30/2022/HSST NGÀY 11/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 8 năm 2022, Tòa án nhân dân huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ mở phiên tòa trực tuyến tại 02 điểm cầu gồm: Điểm cầu trung tâm, tại Tòa án nhân dân huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ; 01 điểm cầu thành phần: Tại Trại tạm giam Công an tỉnh Phú Thọ, để xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 26/2022/TLST-HS ngày 27 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2022/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Xuân H, sinh ngày 02/6/1986 tại huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Xóm Lở, xã L N, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ;; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 11/12; Con ông Nguyễn Chí Q và bà Nguyễn Thị H2; Vợ: Nguyễn Thị Hương T (Đã ly hôn); Con: Có 01 con sinh năm 2005.

- Tiền án: Tại bản án số 10A/2020/HSST ngày 20/02/2020 của Tòa án nhân dân TP. Hoà Bình, tỉnh Hoà Bình xử phạt bị cáo H 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạt ngày 20/10/2020.

- Tiền sự: Ngày 14/8/2017, H bị Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ ra quyết định số 03 áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng. H chấp hành xong ngày 18/8/2019

- Nhân thân:

+ Tại bản án số 176 ngày 24/11/2009 của Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình xử phạt H 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

+ Tại bản án số 127 ngày 27/8/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Hoà Bình, xử phạt Nguyễn Xuân H 5 năm tù về tội Cướp giật tài sản.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 26/4/2022. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Phú Thọ.(Có mặt).

- Bị hại: Anh Phạm Văn V, sinh năm 1993; Địa chỉ: Khu Phố, thị trấn T T, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 25/02/2021, Công an huyện Thanh Thủy nhận được báo cáo của Trung tâm y tế huyện Thanh Thuỷ cùng đơn trình báo của anh Phạm Văn V – Sinh năm 1993, ở Khu Phố thị trấn T T, huyện Thanh Thuỷ với nội dung: Trong khoảng thời gian từ 01 giờ đến 03 giờ ngày 24/02/2021, tại phòng trực của nhân viên khoa cấp cứu, hồi sức tích cực và Chống độc Trung tâm y tế huyện Thanh Thuỷ, bác sĩ Phạm Văn V bị kẻ gian trộm cắp 01 ĐTDĐ Iphone 7 Plus màu đỏ. Trị giá thiệt hại tài sản bị trộm cắp khoảng 4.000.000đồng.

Sau khi tiếp nhận tin báo, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Thủy đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, lấy lời khai của bị hại, của những người liên quan, tiến hành sao lưu hình ảnh Camera ghi lại hình ảnh đối tượng trộm cắp chiếc ĐTDĐ Iphone 7Plus màu đỏ lắp sim số 0346.516.318 của anh Phạm Văn V. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, nội dung vụ án được làm rõ như sau:

Ngày 23/02/2021, H đến Trung tâm y tế huyện Thanh Thuỷ để chăm sóc bố đẻ là ông Nguyễn Chí Q – Sinh năm 1945, ở Xóm Lở, xã L N, huyện Thanh Sơn đang điều trị tại khoa Cấp cứu - HSTC và Chống độc thuộc toà nhà E – Trung tâm y tế huyện Thanh Thuỷ. Tối ngày 23/02/2021, H ngủ tại giường gấp kê tại cửa phòng giáp cầu thang lên tầng 2 của khoa. Khoảng 02 giờ 50 phút ngày 24/02/2021, do cần tiền tiêu sài cá nhân nên H nảy sinh ý định đi tìm tài sản sở hở để ở các phòng trong Trung tâm y tế huyện Thanh Thủy nhằm mục đích để trộm cắp tài sản. Do vậy, H đi theo cầu thang từ tầng 1 lên tầng 2 của khoa Cấp cứu. Khi đi lên tầng 2, H quan sát các phòng xung quanh và phát hiện tại phòng trực nhân viên nữ cửa khép hờ, không khoá. H đi đến cửa phòng quan sát phía bên trong thì thấy bác sỹ Phạm Văn V đang nằm ngủ tại giường y tế kê sát vách ngăn với phòng hành chính. H mở cánh cửa phía bên phải đi vào sát giường anh Việt nằm thì phát hiện tại vị trí đầu giường có để 01 chiếc điện thoại di động Iphone 7 Plus màu đỏ. H dùng tay phải lấy điện thoại của anh Việt rồi đi ra ngoài. Khi ra khỏi phòng, để che giấu hành vi trộm cắp, H tắt nguồn và cất điện thoại vào túi quần bên trái, sau đó đi xuống cầu thang và nằm nghỉ tại giường gấp tầng 1. Đến khoảng 08 giờ sáng cùng ngày, cháu của H là anh Nguyễn Lý L – Sinh năm 1993, ở Xóm Lở, xã L N, Thanh Sơn đến chăm sóc ông Nguyễn Chí Q thay cho H, nên H điều khiển xe máy đi về nhà. Trên đường về nhà, H gặp anh Đinh Văn Hùng – Sinh năm 1988 ở xã L N, huyện Thanh Sơn và rủ anh Hùng lên thành phố Hoà Bình chơi thì anh Hùng đồng ý. Khi H và Hùng đến đầu cầu Hoà Bình 1 (còn gọi là cầu Cứng) thì H bảo anh Hùng đứng đợi ở đầu cầu, còn H đi đến cửa hàng mua bán, sửa chữa điện thoại "Hưng Hiền" tại số nhà 92A, tổ 2, Phường Đồng Tiến, TP. Hoà Bình do chị Nguyễn Thị Hiền – Sinh năm 1980, HKTT ở xã Bắc Phong, huyện Cao Phong, tỉnh Hoà Bình làm chủ để bán chiếc điện thoại vừa trộm cắp được cho một người phụ nữ (đến nay H không nhớ và không nhận dạng được người đó). Khi bán điện thoại, H nói dối với người mua là điện thoại của H bị mất mật khẩu nên người phụ nữ đó mua lại với giá 500.000đ. Sau đó, H đến cầu Hòa Bình 1 đón Hùng rồi cùng nhau sống lang thang ở TP. Hoà Bình và đã tiêu sài cá nhân hết số tiền trên.

Tại kết luận định giá tài sản số 12 ngày 03/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thanh Thuỷ kết luận: "Giá trị tài sản thiệt hại trong vụ Trộm cắp tài sản 01 (một) chiếc điện thoại di động Iphone 7Plus, 128GB, màu đỏ cần định giá là: 4.200.000 đồng".

Ngày 24/3/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Thuỷ đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự "Trộm cắp tài sản" để điều tra theo quy định của pháp luật. Do H bỏ trốn khỏi địa phương nên ngày 25/7/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Thuỷ ra Quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án.

Đến ngày 25/4/2022, Cơ quan điều tra đã triệu tập được H về làm việc. Đối với chị Nguyễn Thị Hiền là chủ cửa hàng điện thoại "Hưng Hiền" tại số nhà 92A, tổ 2, Phường Đồng Tiến, TP. Hoà Bình, Cơ quan điều tra đã làm việc với chị Hiền, chị Hiền có lời khai: Do thời gian đã lâu nên chị Hiền không nhớ có mua điện thoại của H hay không. Do vậy Cơ quan điều tra không thu giữ được chiếc điện thoại của bác sỹ Việt là vật chứng của vụ án.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Thủy đã tạm giữ của H: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen đã cũ lắp sim số 0963.106.545; 01 ví giả da màu đen bên trong có 01 CMND mang tên Nguyễn Xuân H.

Bản cáo trạng số 27/CT-VKSTT ngày 27/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ truy tố bị cáo Nguyễn Xuân H về tội "Trộm cắp tài sản" quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Thủy vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ Khoản 1 Điều 173, Điểm s, khoản 1, 2 Điều 51 và Điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân H từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/4/2022.

Về trách nhiệm dân sự: Điều 30 Bộ luật Tố tụng hình sự; Khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 585, Khoản 1 Điều 586, khoản 1 Điều 589 của bộ luật dân sự. Buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại số tiền 4.200.000đồng.

Ngoài ra Kiểm sát viên còn đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các quy định của pháp luật để xử lý vật chứng và án phí.

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.

Bị hại Anh Phạm Văn V yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho anh giá trị tài sản bị mất trộm theo giá của Hội đồng định giá đã định và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1. Về tố tụng: Đối với bị hại vắng mặt tại phiên tòa. Kiểm sát viên, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án. Xét thấy bị hại vắng mặt nhưng đã có lời khai thể hiện trong hồ sơ và việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự, tiếp tục xét xử vụ án là phù hợp quy định của pháp luật.

2. Về nội dung vụ án:

[1] Tại phiên toà cũng như tại cơ quan điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu, thừa nhận nội dung cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan sai. Lời khai nhận của bị cáo tại cơ quan điều tra và lời khai tại phiên toà đều thống nhất với nhau, phù hợp lời khai của người bị hại và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 02 giờ 50 phút, ngày 24/02/2021, tại Trung tâm Y tế huyện Thanh Thủy thuộc khu 5, thị trấn T T, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ, bị cáo Nguyễn Xuân H đã có hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động Iphone 7Plus màu đỏ 128GB của anh Phạm Văn V, sinh năm 1993, ở Khu Phố thị trấn T T, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ. Giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt của anh Việt là 4.200.000đ (Bốn triệu hai trăm nghìn đồng), được thể hiện tại Kết luận định giá tài sản số 12 ngày 03/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thanh Thuỷ.

Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “ trộm cắp tài sản’ được quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt đến 03 năm tù.

[2] Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, với lỗi cố ý trực tiếp, bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật Hình sự bảo vệ. Mục đích của bị cáo là trộm cắp tài sản của người khác đem bán kiếm tiền để tiêu sài cá nhân. Nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội là do bị cáo không chịu rèn luyện, muốn có tiền tiêu sài nhưng lại lười lao động nên đã đi vào con đường phạm tội, gây mất trật tự trị an tại địa phương, tạo nên tâm lý hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân trong việc trông giữ, bảo vệ tài sản của mình. Do đó cần xử phạt bị cáo nghiêm minh, mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng: Bị cáo là người có nhân thân xấu: Đã từng bị Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình xử phạt về các tội thể hiện: Tại bản án số 176 ngày 24/11/2009 xử phạt H 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, đã được xóa án tích; Bản án số 127 ngày 27/8/2012 , xử phạt H 5 năm tù về tội Cướp giật tài sản và buộc H phải có trách nhiệm bồi thường cho các bị hại với tổng số tiền 6.757.000đ. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù ra trại ngày 08/01/2017, nhưng chưa bồi thường cho bị hại; Bản án số 10A ngày 20/02/2020 xử phạt bị cáo 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Bị cáo đã chấp hành xong phần Quyết định của bản án. Tuy nhiên, tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội ngày 24/02/2021 trong vụ án này, bị cáo chưa được xoá án tích. Ngày 14/8/2017, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn ra quyết định số 03 áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng, bị cáo chấp hành xong ngày 18/8/2019. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội ngày 24/02/2021, bị cáo chưa được xoá tiền sự.

Quá trình điều tra xác định bị cáo chưa thực hiện nghĩa vụ bồi thường cho các bị hại đối với bản án số 127 ngày 27/8/2012 nên bị cáo chưa được xoá án tích đối với bản án trên. Nhưng tại bản án số 10A/2020/HSST ngày 20/02/2020 của Tòa án nhân dân TP. Hoà Bình không xác định bản án số 127 ngày 27/8/2012 là tiền án. Do vậy, áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo, Hội đồng xét xử xác định lần phạm tội này, bị cáo chỉ là tái phạm của bản án số 10A ngày 20/02/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hoà Bình.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm...” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình, ngoài ra bị cáo còn được người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là: “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s, Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo quy định tại Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự thì bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 50.000.000đ. Qua xác minh của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Thủy cho thấy, bị cáo không có công ăn việc làm ổn định, không có tài sản riêng gì có giá trị lớn. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, thể hiện sự nhân đạo của pháp luật.

[5]Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo chưa thực hiện nghĩa vụ bồi thường cho bị hại. Do đó bị hại anh Phạm Văn V yêu cầu bị cáo phải bồi thường giá trị tài sản theo giá của Hội đồng định giá là có căn cứ. Do Cơ quan điều tra không thu giữ được chiếc điện thoại của bị hại, nên Hội đồng xét xử cần buộc bị cáo phải bồi thường thiệt hại cho bị hại là anh Việt 4.200.000đ (Bốn triệu hai trăm nghìn đồng) giá trị chiếc điện thoại do bị cáo trộm cắp theo giá của Hội đồng định giá là phù hợp.

[6] Về Xử lý vật chứng vụ án: Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Thủy đã tạm giữ của H: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen đã cũ lắp sim số 0963.106.545; 01 ví giả da màu đen bên trong có 01 CMND mang tên Nguyễn Xuân H, là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến tội phạm, Hội đồng xét xử xét thấy trả lại cho bị cáo là phù hợp.

[7] Đối với chị Nguyễn Thị Hiền, theo lời khai của bị cáo là người đã mua chiếc điện thoại Iphone 7Plus màu đỏ do bị cáo trộm cắp mà có. Quá trình điều tra, không làm rõ được việc bị cáo bán chiếc điện thoại di động trộm cắp được cho chị Hiền. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Thủy không có căn cứ để xử lý đối với chị Hiền trong vụ án này là phù hợp.

[8] Đối với anh Đinh Văn Hùng, quá trình điều tra xác định anh Hùng không biết việc H trộm cắp tài sản điện thoại mang đi bán tại thành phố Hòa Bình và anh Hùng cũng không được hưởng lợi gì nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Thủy không đề cập xử lý là phù hợp.

[9] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Xuân H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự trong án hình sự [10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[11] Các quyết định Tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố là hợp pháp. Đề nghị của kiểm sát viên VKSND huyện Thanh Thủy tại phiên toà phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điểm s, Khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; Điều 30 Bộ luật Tố tụng hình sự; Khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 585, Khoản 1 Điều 586, khoản 1 Điều 589 của Bộ luật dân sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Xuân H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Xuân H 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 26/4/2022.

Về hình phạt bổ sung: Miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Xuân H phải bồi thường thiệt hại cho anh Phạm Văn V số tiền 4.200.000đ (Bốn triệu hai trăm nghìn đồng).

Kể từ khi Bản án có hiệu lực pháp luật, bên có nghĩa vụ chậm trả tiền mà bên được thi hành án có đơn đề nghị thi hành án, thì bên có nghĩa vụ còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả, tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điểm a, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại cho bị cáo Nguyễn Xuân H: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen đã cũ lắp sim số 0963.106.545, số ghi trên thẻ sim 8984048008816015857, số IMEL1: 355149114204023, số IMEL2: 355149114204031; 01 ví giả da màu đen bên trong có 01 CMND mang tên Nguyễn Xuân H.

(Vật chứng trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/7/2022).

Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a, c khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Xuân H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hình sự.

Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo Bản án; bị hại vắng mặt thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

857
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 30/2022/HSST

Số hiệu:30/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Thuỷ - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về