TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 244/2021/HS-ST NGÀY 23/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 23 tháng 11 năm 2021, tại: Trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 241/2021/HSST ngày 22 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Phan Lưu S; Giới tính: Nam : Sinh năm: 1977 ; Nơi cư trú: cụm 13 thôn V, xã V, huyện T, Thành phố H; Nghề nghiệp: Không ; Trình độ học vấn: Không biết chữ ; Quốc tịch: Việt Nam ; Dân tộc: Kinh ; Tôn giáo: Không ; Họ tên cha: Phan Lưu S2 – sinh năm: 1956 ; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị T, sinh năm: 1954 ; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ hai; Họ tên vợ: Lê Thị N- sinh năm: 1974 ; Có 02 con, con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2011.
Tiền án tiền sự: 06 tiền án; 01 tiền sự;
Tiền sự : Ngày 22/5/2002: Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đưa vào Trường giáo dưỡng 24 tháng;
Tiền án :
- Ngày 17/7/1996, Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì xử phạt 14 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản công dân; (không xác định trị giá tài sản); buộc S phải nộp 50.000đ án phí HSST và 50.000 đ án phí dân sự, S phải bồi thường cho anh ông Nguyễn Khắc Đ1 300.000đ, bồi thường cho ông Nguyễn Huy Đ2 300.000đ, buộc S phải trả cho anh Trương Đức T 140.000đ, truy nộp 210.000đ; (AS: 108/HSST). Xác minh tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Trì: Đã nộp án phí HSST, án phí dân sự, tiền truy nộp. Khoản bồi thường cho công dân tổng số tiền 340.000đ, do đương sự không có đơn yêu cầu thi hành án nên Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Trì không có căn cứ thụ lý thi hành - Án tích đã xóa - Ngày 08/12/1997, Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản công dân; (Tổng trị giá tài sản: 1.040.000 đồng); buộc S phải nộp 50.000đ án phí HSST và 50.000 đ án phí dân sự, S phải bồi thường cho chị Nguyễn Thị T 400.000đ, buộc S phải trả cho chị Đỗ Mai L 150.000đ (AS: 180/HSST). Xác minh tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Trì: Đã nộp án phí HSST, án phí dân sự. Khoản bồi thường cho công dân tổng số tiền 450.000đ, do đương sự không có đơn yêu cầu thi hành án nên Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Trì không có căn cứ thụ lý thi hành - Án tích đã xóa - Ngày 16/02/2000, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản công dân; (Tổng trị giá tài sản: 550.000 đồng); buộc S phải nộp 50.000đ án phí HSST và 50.000 đ án phí dân sự, S phải bồi thường cho anh Đỗ Văn T 300.000đ (AS: 178/HSST). Xác minh tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội: Đã nộp án phí HSST, án phí dân sự. Khoản bồi thường cho công dân tổng số tiền 300.000đ, do đương sự không có đơn yêu cầu thi hành án nên không có căn cứ thụ lý thi hành - Án tích đã xóa - Ngày 19/12/2012, Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì xử phạt 04 năm tù về tội Cướp tài sản; (Tổng trị giá tài sản: 1.200.000 đồng); buộc S phải nộp 200.000đ án phí HSST và 200.000đ án phí dân sự, S phải bồi thường cho cháu Nghiêm Huyền T2 500.000đ (AS: 205/HSST). Xác minh tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Trì: Đã nộp án phí HSST, án phí dân sự, đã bồi thường cho công dân số tiền 500.000đ - Án tích chưa xóa - Ngày 02/11/2017, Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì xử phạt 10 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; (Trị giá tài sản: 1.200.000 đồng); buộc S phải nộp 200.000đ án phí HSST (AS: 147/HSST). Xác minh tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Trì: Đã nộp án phí HSST - Án tích chưa xóa - Ngày 20/12/2018, Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì xử phạt 16 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Ra trại ngày 20/6/2020; (Trị giá tài sản: 8.300.000 đồng); buộc S phải nộp 200.000đ án phí HSST và 375.000đ án phí dân sự, S phải bồi thường cho anh Nguyễn Tiến L 7.500.000đ (AS: 201/HSST). Xác minh tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Trì: Chưa nộp án phí HSST, án phí dân sự. Khoản bồi thường cho công dân số tiền 7.500.000 đồng, do đương sự không có đơn yêu cầu thi hành án nên Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Trì không có căn cứ thụ lý thi hành - Án tích chưa xóa Lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm Tạm giữ: 09/7/2021; Tạm giam: 18/7/2021. Bị caó hiện tạm giam tại Trại tạm giam số 2 – Công an thành phố Hà Nội.
- Bị hại:
Có mặt tại phiên tòa.
1. Anh Trần Hải L2, sinh năm: 1975, Nơi cư trú: số 10 N, phường H, quận H, Thành phố H. Vắng mặt tại phiên tòa.
2. Chị Bạch Thị Thu A, sinh năm: 1977, Nơi ở: số 12/50 P, phường T, quận N, Thành phố H. Vắng mặt tại phiên tòa
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Ngô Bá D, sinh năm: 1973, Nơi cư trú: số 8 ngõ 897 G, phường G, quận H, Thành phố H.Vắng mặt tại phiên tòa
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ 50 phút ngày 08/7/2021, Phan Lưu S đến Cơ quan Công an phường Hàng Bài quận Hoàn Kiếm, Hà Nội đầu thú và khai nhận đã trộm cắp 02 chiếc điện thoại (01 điện thoại Iphone X và 01 điện thoại XS Max màu đen vào ngày 01/7/2021 tại số 10 Ngô Thì Nhậm, phường Hàng Bài, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội và trộm cắp 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy A6 màu đen tại số 02 Lương Thế Vinh, phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội ngày 08/7/2021.
Tang vật thu giữ của Phan Lưu S: 01 chiếc điện thoại di động SAMSUNG màu đen có số IMEI 1: 355021104375347, IMEI 2: 355022104375345 có số sim 1: 0363595430, sim 2: 0366196677 đã qua sử dụng.
Cơ quan điều tra đã tiến hành dẫn giải Phan Lưu S chỉ địa điểm nơi trộm cắp và bán tài sản trộm cắp.
Cơ quan điều tra tiến hành cho anh Ngô Bá D (Sinh năm: 1973, Nơi cư trú: số 8 ngõ 897 Giải Phóng, phường Giáp Bát, quận Hoàng Mai, Hà Nội) - chủ cửa hàng điện thoại số 8 ngõ 897 Giải Phóng, phường Giáp Bát, quận Hoàng Mai, Hà Nội nhận dạng Phan Lưu S là người đã bán 02 chiếc điện thoại Iphone X và Iphone XS MAX màu đen cho anh với giá 3.500.000 đồng vào ngày 01/7/2021. Anh D tự nguyện giao nộp: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS MAX màu đen, số IMEI: 353131100784269, đã qua sử dụng, không rõ chất lượng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu đen, số IMEI: 353044090683286 đã cũ.
Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 188/BKL-HĐĐGTS ngày 24/7/2021 của Hội đồng định giá thường xuyên để định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hoàn Kiếm kết luận: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG Galaxy A6 màu đen (đã qua sử dụng) trị giá: 1.500.000đ (Một triệu năm trăm ngàn đồng).
Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 179/BKL-HĐĐGTS ngày 17/7/2021 của Hội đồng định giá thường xuyên để định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hoàn Kiếm kết luận: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE X màu đen (đã qua sử dụng) trị giá: 8.000.000đ (Tám triệu đồng); 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE XS MAX màu đen (đã qua sử dụng) trị giá: 13.000.000đ (Mười ba triệu đồng). Tổng trị giá: 21.000.000đ (Hai mươi mốt triệu đồng) .
Tại cơ quan điều tra, Phan Lưu S khai nhận: Khoảng 13 giờ ngày 01/7/2021, S đi xe đạp màu trắng, mặc áo phông màu xám, quần soóc màu vàng, đội mũ lưỡi trai và đeo khẩu trang đi quanh khu vực quận Hoàn Kiếm với mục đích trộm cắp tài sản. Khi đi đến số 10 Ngô Thì Nhậm, phường Hàng Bài, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, S thấy 02 người trong cửa hàng đang ngủ nên dựng xe tại vỉa hè và đi vào cửa hàng thấy trên ghế gỗ bên phải cửa ra vào, dưới chân có 02 chiếc điện thoại Iphone X và Iphone XS Max màu đen. S quan sát thấy không có ai nên đã lấy 02 chiếc điện thoại bỏ vào túi quần bên phải rồi bỏ đi. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, S mang 02 chiếc điện thoại đến cửa hàng mua bán điện thoại tại số 8 ngõ 897 Giải Phóng, phường Giáp Bát, Hoàng Mai, Hà Nội để bán. Chủ cửa hàng mua với giá 3.500.000 đồng, S đồng ý rồi đưa cho người đàn ông 02 chiếc điện thoại, lấy tiền chi tiêu cá nhân. Ngoài ra, khoảng 13 giờ ngày 08/7/2021, S đi bộ quanh khu vực đường Lương Thế Vinh, phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội với mục đích trộm cắp tài sản. Khi đi đến số 02 Lương Thế Vinh, S nhìn thấy 01 người phụ nữ đang nằm ngủ trong cửa hàng bán nước, trước mặt để 01 điện thoại Samsung Galaxy A6 màu đen, S quan sát thấy không có ai nên lấy chiếc điện thoại cho vào túi quần bên phải rồi bỏ đi. Đến 16 giờ 50 phút ngày 08/7/2021, S đến Công an phường Hàng Bài đầu thú về hành vi trộm cắp tài sản và giao nộp 01 điện thoại Samsung Galaxy A6 màu đen.
Người bị hại là anh Trần Hải L2 (Sinh năm: 1975, Nơi cư trú: số 10 Ngô Thì Nhậm, phường Hàng Bài, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) khai: Khoảng 13 giờ 15 phút ngày 01/7/2021, anh L2 ngủ trưa tại cửa hàng số 10 Ngô Thì Nhậm, phường Hàng Bài, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, anh L2 nằm trên ghế dài bên phải cửa hàng hướng ra ngoài cửa ra vào, để 02 chiếc điện thoại Iphone X và Iphone XS màu đen cạnh nơi nằm ngủ. Đến khoảng 14 giờ 15 phút cùng ngày thì anh phát hiện đã mất 02 chiếc điện thoại, anh L2 kiểm tra camera tại cửa hàng thì thấy trong lúc anh L2 đang ngủ thì có 01 người đàn ông dáng người gầy, mặc áo phông màu xám, quần sooc màu vàng, đi giày, đội mũ lưỡi trai, đi bộ vào cửa hàng của anh L2 trộm cắp 02 chiếc điện thoại trên rồi bỏ ra ngoài. Do bận công việc nên đến ngày 08/7/2021, anh L2 đến Công an phường Hàng Bài trình báo và giao nộp: 01 USB ghi lại hình ảnh đối tượng trộm cắp tài sản.
Người bị hại là chị Bạch Thị Thu A (Sinh năm: 1977, Nơi ở: số 12/50 Phùng Khoang, phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội) khai: Khoảng 13 giờ ngày 08/7/2021, chị Thu A bán hàng tại nhà số 02 Lương Thế Vinh, phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội thì ngủ quên, chị có để 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy A6 màu đen cạnh người trên giường gấp, khi ngủ dậy thì chị phát hiện chiếc điện thoại đã bị mất. Trước lúc chị Thu A ngủ thì không có khách đến cửa hàng của chị.
Đối với anh Ngô Bá D là người mua điện thoại nhưng không biết nguồn gốc 02 chiếc điện thoại là do S trộm cắp nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý đối với anh D. Ngày 08/11/2021, anh D có đơn xin xét xử vắng mặt và không yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 3.500.000 đồng mà anh đã mua lại 02 chiếc điện thoại.
Ngày 04/10/2021, Cơ quan CSĐT - Công an quận Hoàn Kiếm đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho anh Trần Hải L2: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu đen (đã qua sử dụng), 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max màu đen (đã qua sử dụng); trả lại cho chị Bạch Thị Thu A: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A6 màu đen (đã qua sử dụng), anh L2 và chị Thu A đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về dân sự.
Tại bản cáo trạng số 243/CT-VKS ngày 21/10/2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm đã truy tố Phan Lưu S về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà:
* Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố về hành vi, tội danh và điều luật. Đề nghị Hội đồng xét xử:
1. Tuyên bố bị cáo Phan Lưu S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Điều luật và hình phạt: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt: Phan Lưu S mức án từ 36 đến 42 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận được tài sản không có yêu cầu bồi thường dân sự nào khác; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu bồi thường nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
- Về xử lý vật chứng: 01 USB (ghi lại việc bị cáo S trộm cắp) đưa vào lưu trữ trong hồ sơ vụ án.
- Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
* Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng nêu, nói lời sau cùng ăn năn hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an quận Hoàn Kiếm; Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên quận Hoàn Kiếm trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về định tội và hình phạt: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, vật chứng, kết quả định giá cùng các tài liệu chứng cứ khác mà cơ quan điều tra đã thu thập được trong hồ sơ vụ án và nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm đã truy tố có đủ cơ sở kết luận:
Trong 02 ngày 01/7/2021 và 08/7/2021, Phan Lưu S đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản là điện thoại trên địa bàn các quận Hoàn Kiếm, Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội cụ thể như sau:
Vụ 1: Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 01/7/2021, tại số 10 Ngô Thì Nhậm, phường Hàng Bài, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, Phan Lưu S đã trộm cắp của anh Trần Hải L2: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu đen (đã qua sử dụng) trị giá 8.000.000 đồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max màu đen (đã qua sử dụng) trị giá 13.000.000 đồng.
Vụ 2: Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 08/7/2021, tại số 02 Lương Thế Vinh, phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội, Phan Lưu S đã trộm cắp của chị Bạch Thị Thu A 01 chiếc điện thoại mang nhãn hiệu SAMSUNG Galaxy A6 màu đen trị giá 1.500.000 đồng.
Tổng trị giá tài sản Phan Lưu S đã trộm cắp là: 22.500.000 đồng.
Về nhân thân: Bị cáo có 06 tiền án, 01 tiền sự, trong đó có 03 tiền án chưa được xóa, phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 là có căn cứ. Thể hiện bị cáo là người có thân nhân xấu, đã được giáo dục nhiều lần nhưng không chịu tu dưỡng trở thành người có ích cho xã hội lại tiếp tục phạm tội, thể hiện sự coi thường pháp luật. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo nhiều lần bị xử lý hình sự, do đó cần phải xử phạt bị cáo hình phạt tù cách ly với xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời đáp ứng yêu cầu phòng ngừa chung.
[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng do phạm tội từ 02 lần trở lên theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015.
- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa cũng như tại cơ quan điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
Đối với loại tội này, ngoài hình phạt chính, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn do đó Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại anh Trần Hải L2, chị Bạch Thị Thu A đã nhận được lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường dân sự nào khác nên Hội đồng xét xử không xét. Anh Ngô Bá D là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 3.500.000 đồng là số tiền mua 02 chiếc điện thoại do anh D không biết đây là tài sản do S trộm cắp mà có nên Hội đồng xét xử không xét.
* Về vật chứng vụ án: là 01 USB (ghi lại việc S trộm cắp) thì đưa vào lưu giữ trong hồ sơ vụ án.
[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.
Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Phan Lưu S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015.
Xử phạt: Bị cáo Phan Lưu S 44 ( Bốn mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/7/2021.
3. Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, xử lý vật chứng như sau: 01 USB ghi lại việc bị cáo S trộm cắp đưa vào lưu giữ trong hồ sơ vụ án.
4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 244/2021/HS-ST
Số hiệu: | 244/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về