Bản án về tội trộm cắp tài sản số 24/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 24/2023/HS-ST NGÀY 18/12/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 25/2023/HSST ngày 28/11/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2023/QĐXXST- HS ngày 05/12/2023 đối với bị cáo:

Trần Xuân H (tên gọi khác: Không), sinh ngày 26 tháng 01 năm 2000 tại: Thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; nơi ĐKHKTT: Tổ 9, phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Nơi ở: Tổ 2, phường C, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giơi tinh : Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông Trần Xuân K, sinh năm 1966 và bà Đặng Thị T, sinh năm 1967; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30/9/2023 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại:

1/ Chị Tòng Thị B, sinh năm 2000; Địa chỉ: B, xã H, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Vắng mặt có lý do.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Anh Lò Văn M, sinh năm 1990; Địa chỉ: Bản C, xã C, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; vắng mặt có lý do.

2/ Chị Chu Thị T, sinh năm 1990; Địa chỉ: Tổ X, phường T, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Vắng mặt có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 23/9/2023 sau khi chơi điện tử ở quán GameMing thuộc tổ 9, phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La thì H đi về. Đến khoảng 05 giờ 30 phút cùng ngày, khi đến khu vực trường Mầm non T thuộc Tổ 9, phường T, thành phố Sơn La; H thấy 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA LEAD, màu bạc đen biển số 26B2-X thuộc sở hữu của chị Tòng Thị B, trú tại: B, xã H, thành phố Sơn La là công nhân vệ sinh môi trường đang đi làm việc để trên vỉa hè đường Điện Biên giáp với trường Mầm non T. H đứng dưới đường quan sát thấy xung quanh không có người đi lại nên H tiến đến đứng bên trái xe máy rồi dùng tay phải lắc đầu xe thì thấy xe không khóa cổ nên H dắt chiếc xe máy xuống đường rồi dắt xe vào đường Lê Thanh Nghị (giáp với đường Điện Biên và trường Mầm non T). Đi qua trường mầm non T khoảng 100 mét thì H thấy có 01 khoảng sân trống có mái che, không thấy người H dắt chiếc xe máy vào và lấy từ trong người ra 01 chìa khóa xe máy dài khoảng 07 cm cắm vào ổ khóa điện để mở khóa điện của xe nhưng không mở được, do sợ có người phát hiện và đây là ngõ cụt nên H bỏ lại chiếc xe máy trên tại khoảng sân trống có mái che rồi đi về. Khi đi qua Nhà văn hóa Tổ 9, phường T, thành phố Sơn La đến khoảng sân bê tông thì H đứng dưới đường Điện Biên, gần bãi đất, đá gạch ở dưới đường ném chiếc chìa khóa trên về hướng bụi cây rồi đi về nhà.

Đến khoảng 14 giờ 30 phút ngày 23/9/2023, H đi bộ từ khu vực bản Lầu, phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La đến khu vực bờ kè suối Nậm La tại Lô 2, khu 4B Bờ kè. H thấy có nhiều học sinh đang học phía trong dãy nhà cấp 4, Trung tâm dạy thêm Thầy Kiên và ở ngoài vỉa hè phía trước một khu đất trống để nhiều xe máy, xe máy điện, xe đạp điện, xe đạp. Trong đó, có 01 chiếc xe đạp địa hình màu xanh - đen - trắng để phía ngoài cùng của chị Chu Thị T, trú tại: Tổ 01, phường T, thành phố Sơn La. H thấy chiếc xe đạp địa hình này không có khóa, H đứng cách chiếc xe này khoảng 10 m để quan sát khoảng 10 phút, khi thấy không có người qua lại thì H tiến đến vị trí để chiếc xe đạp địa hình trên. H ngồi lên chiếc xe đạp rồi quay đầu xe, đạp đi đến cửa hàng Chợ đồ cũ MoGi tại Tổ X4, phường Quyết Thắng, thành phố Sơn La bán chiếc xe đạp trên. Tại đây, H gặp anh Lò Văn M, trú tại: Bản C, xã C, thành phố Sơn La (là nhân viên cùa Chợ đồ cũ MoGi) và bán được chiếc xe đạp trên với giá 550.000 đồng. Sau đó H đi bộ về nhà và đã chi tiêu cá nhân hết số tiền trên.

Ngày 26/9/2023 chị Chu Thị T có đơn trình báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đề nghị xác minh, điều tra. Ngay sau khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã tiến hành rà soát, xác minh trên địa bàn và tiến hành thu thập các chứng cứ liên quan đến vụ việc đồng thời triệu tập Trần Xuân H đến làm rõ. Tại cơ quan điều tra vào ngày 26/9/2023 H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình về việc trộm cắp chiếc xe đạp của chị T và tự thú với cơ quan Công an về hành vi trộm chiếc xe máy của chị tòng Thị B. Ngày 27/9/2023 chị Tòng Thị B có đơn đề nghị đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La trình bày về bị mất chiếc xe máy hiệu HONDA LEAD, màu bạc - đen, biển kiểm soát 26B2- X của mình. Ngày 27/9/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã tiến hành xác minh, khám nghiệm hiện trường nơi Trần Xuân H thực hiện hành vi chiếm đoạn 01 chiếc xe mô tô và 01 xe đạp và nơi H bỏ lại chiếc xe máy biểm kiểm soát: 26B2-X, quá trình khám nghiệm không phát hiện dấu vết, thu giữ đồ vật, tài sản gì có liên quan.

Vật chứng thu giữ:

- 01 chiếc xe đạp nhãn hiệu ALCOTT màu đen - trắng - xanh đã qua sử dụng (Tạm giữ của anh Lò Văn M tại cửa hàng bán đồ cũ Mogi).

- 01 chiếc xe nhãn hiệu HONDA LEAD, màu bạc - đen, biển kiểm soát 26B2- X đã qua sử dụng (Tạm giữ của chị Tòng Thị B).

Ngày 26/9/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La tiến hành thu giữ 01 đoạn Video dài 01 phút 08 giây từ hệ thống camera an ninh của gia đình anh Nguyễn Đức Kiên tại khu vực tổ 09, phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La ghi lại hình ảnhTrần Xuân H thực hành vi chiếm đoạn chiếc xe đạp địa hình của chị Chu Thị T.

Ngày 13/10/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã ra quyết định trưng cầu giám định đối với đoạn video nêu trên. Tại Kết luận giám định số 2472/KL-KTHS ngày 23/10/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận: “File video gửi giám định không bị cắt ghép, chỉnh sửa nội dung”.

Ngày 27/9/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã tiến hành cho Trần Xuân H xác định lại vị trí đã thực hiện hành vi chiếm đoạt và vị trí bỏ lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu nhãn hiệu HONDA LEAD, màu bạc đen, biển số 26B2-X vào ngày 23/9/2023 theo lời khai của H. Qua buổi làm việc, các vị trí mà H xác định trùng khớp với vị trí mà chị B đã dựng xe ban đầu và vị trí mà chị B tìm thấy xe sau khi phát hiện bị mất.

Ngày 29/9/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La ra yêu cầu định giá tài sản số 209/YC-ĐTTH để xác định giá trị còn lại của các tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án. Tại bản Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 41/KL-KLĐĐGTS ngày 29/9/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Sơn La, kết luận: Tổng giá trị trung bình của tài sản tại thời điểm bị xâm hại là 7.434.000 đồng (Bảy triệu bốn trăm ba mươi bốn nghìn đồng), trong đó 01 chiếp xe nhãn hiệu HONDA LEAD, màu bạc - đen, biển kiểm soát 26B2- X đã qua sử dụng có giá trị trung bình là 6.167.000 đồng (Sáu triệu một trăm sáu mươi bảy nghìn đồng); 01 chiếc xe đạp nhãn hiệu ALCOTT màu đen – trắng - xanh đã qua sử dụng có giá trị trung bình là 1.267.000 đồng (Một triệu hai trăm sáu mươi bảy nghìn đồng).

Đối với hành vi chiếm đoạt 01 chiếc xe đạp nhãn hiệu ALCOTT màu đen - trắng - xanh của Trần Xuân H vào ngày 23/9/2023, qua điều tra xác định giá trị còn lại của chiếc xe là 1.267.000 đồng (dưới 2.000.000 đồng) do dó không đủ yếu tố cấu thành của tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự. Ngày 16/11/2023, Công an thành phố Sơn La đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 15 Nghị định 144/NĐ-CP bằng hình thức phạt tiền đối với Trần Xuân H là đúng với quy định của pháp luật.

Ngoài 02 vụ nêu trên, H còn khai nhận, khoảng tháng 7/2023 còn thực hiện hành vi trộm cắp 01 chiếc xe máy (H không nhớ đặc điểm) tại ngõ 75 đường Lê Đức Thọ thuộc Tổ X3, phường Quyết Thắng, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã tiến hành điều tra, xác minh, tuy nhiên không xác định được người bị hại và không thu giữ được đồ vật, tài liệu có liên quan nên không đủ căn cứ để chứng minh hành vi phạm tội theo bị cáo khai nhận.

Do có hành vi nêu trên tại bản cáo trạng số: 574/CT-VKSTP, ngày 28/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố bị cáo Trần Xuân H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ Luật hình sự.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Trần Xuân H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản là đúng người, đúng tội.

Tại phiên toà vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ quan điểm truy tố đối với bị cáo, sau khi đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Trần Xuân H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 15; Điều 57; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bi cao Trần xuân H Từ 9 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng thu giữ trong vụ án: Căn cứ Khoản 2 điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã trả cho:

- Chị Tòng Thị B 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD, màu bạc - đen, biển kiểm soát 26B2-X đã qua sử dụng. Chị Chu Thị T 01 chiếc xe đạp nhãn hiệu ALCOTT màu den - trắng - xanh đã qua sử dụng.Chị B và chị T không yêu cầu bị cáo Trần Xuân H bồi thường về dân sự.

- Chấp nhận sự tự nguyện của đại diện gia đình Trần Xuân H (bà Đặng Thị Thành là mẹ đẻ H) tự nguyện bồi thường cho anh Lò Văn M số tiền 550.000 đồng.

Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết quả định giá tài sản; nhất trí với Quyết định truy tố của Viện kiểm sát;

Quá trình điều tra và tại phiên tòa:

- Bị cáo nhất trí với bản luận tội cũng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phần tranh luận; bị cáo tỏ ra ăn năn và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Bị hại có ý kiến tại đơn xin xét xử vắng mặt: bị hại đã nhận lại tài sản do bị cáo chiếm đoạt và đều không yêu cầu bị cáo bồi thường về dân sự, có ý kiến xin giảm nhẹ về hình phạt cho bị cáo.

- Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, có ý kiến tại đơn xin xét xử vắng mặt: đã nhận đủ số tiền 550.000,đ (năm trăm năm mươi nghìn đồng) và nhận lại tài sản và không có ý kiến gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tố tụng: Người bị hại chị Tòng Thị B và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: anh Lò Văn M, chị Chu Thị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa nhưng đều vắng mặt có lý do có đơn xin xét xử vắng mặt, xét thấy việc vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người bị hại không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, căn cứ khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

[3.1] Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Trần Xuân H đều có lời khai nhận tội thống nhất Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 23/9/2023 lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu tài sản, dựng xe đạp tại khu vực bờ kè suối Nậm La tại Lô 2, khu 4B Bờ kè (Trung tâm dạy thêm Thầy Kiên), xe không khóa cổ, không có người trông coi, bị cáo đã lén lút đến dắt xe đạp địa hình nhãn hiệu ALCOTT màu xanh - đen - trắng đạp xe đến cửa hàng Chợ đồ cũ MoGi tại Tổ X4, phường Quyết Thắng, thành phố Sơn La bán chiếc xe đạp trên cho anh Lò Văn M với giá 550.000 đồng. Sau đó H đi bộ về nhà và đã chi tiêu cá nhân hết số tiền trên.

Đến ngày 26/9/2023 Cơ quan điều tra đã triệu tập H lên để làm rõ về hành vi chiếm đoạt chiếc xe đạp tại khu vực bờ kè suối Nậm La H đã thừa nhận toàn bộ hành vi chiếm đoạt chiếc xe đạp của mình, Hội đồng định giá đã xác định trị giá chiếc xe đạp là 1.267.000 dồng (Một triệu hai trăm sáu mươi bảy nghìn đồng) (dưới 2.000.000 đồng) do dó không đủ yếu tố cấu thành của tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự. Ngày 16/11/2023, Công an thành phố Sơn La đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 15 Nghị định 144/2021/NĐ-CP bằng hình thức phạt tiền đối với Trần Xuân H là đúng với quy định của pháp luật.Tại cơ quan điều tra H đã tự thú về hành vi chiếm đoạt chiếc xe máy của bị cáo trước đó cụ thể:

Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 23/9/2023 lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu tài sản, dựng xe máy tại khu vực trường Mầm non T thuộc Tổ 9, phường T, thành phố Sơn La, xe không khóa cổ, không có người trông coi, bị cáo đã lén lút đến dắt xe ra khỏi vị trí để xe đến khu đất trống dùng chìa khóa xe máy đem theo người để mở khóa nhưng không được, thấy vậy bị cáo đã bỏ xe lại và đi bộ về nhà trên đường về đến khu vực Nhà văn hóa Tổ 9, phường T, thành phố Sơn La H đứng dưới đường Điện Biên, gần bãi đất, đá gạch ở dưới đường ném chiếc chìa khóa trên về hướng bụi cây. rồi đi về nhà tại tổ 02, phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La. Việc bị cáo không chiếm đoạt được chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD, màu bạc đen biển số 26B2-X thuộc sở hữu của chị Tòng Thị B là ngoài ý muốn chủ quan của bị cáo, thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt được quy định tại Điều 15 Bộ luật hình sự. Trị giá chiếc xe mô tô là 6.167.000 đồng (Sáu triệu một trăm sáu mươi bảy nghìn đồng) nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Trộm cắp tài sản”chưa đạt theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Ngoài 02 vụ nêu trên, H còn khai nhận, khoảng tháng 7/2023 còn thực hiện hành vi trộm cắp 01 chiếc xe mô tô (H không nhớ đặc điểm) tại ngõ 75 đường Lê Đức Thọ thuộc Tổ X3, phường Quyết Thắng, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã tiến hành điều tra, xác minh, tuy nhiên không xác định được người bị hại và không thu giữ được đồ vật, tài liệu có liên quan nên không đủ căn cứ để chứng minh hành vi phạm tội theo bị cáo khai nhận.

[3.2] Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra. Lời khai của bị cáo phù hợp với kết quả điều tra, phù hợp với; Đơn trình báo mất tài sản của người bị hại; Biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm; Biên bản khám nghiệm hiện trường; Sơ đồ hiện trường; Bản ảnh hiện trường; Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Hội đồng định giá tài sản thành phố Sơn La; Thông báo về nội dung kết luận định giá tài sản; Các biên bản giao nhận tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử; Biên bản kiểm tra thông tin trong điện thoại; Lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ các căn cứ trên có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Trần Xuân H đã có hành vi lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản của chị Tòng Thị B với tổng trị giá là 6.167.000 đồng (Sáu triệu một trăm sáu mươi bảy nghìn đồng). Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự có khung hình phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

[ 3.3] Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Khi thực hiện hành vi chiếm đoạt, bị cáo Trần Xuân H có đủ khả năng nhận thức cũng như điều khiển hành vi. Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra. Tuy nhiên khi áp dụng hình phạt cần xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

Về nhân thân bị cáo: bị cáo có nhân thân tương đối tốt, bị cáo không phải là đối tượng nghiện hút ma túy, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo đã nhờ gia đình khắc phục hậu quả bồi thường cho người liên quan, bị cáo đã tự thú về hành vi phạm tội trước đó của mình, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị hại có ý kiến xin được giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

[4] Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đối chiếu với các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về việc đã làm. Bị cáo có khả năng tự cải tạo. Xét thấy bị cáo có đủ điều kiện cho hưởng án treo. Nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mà cho bị cáo được hưởng án treo dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương nơi cư trú cũng đảm bảo mục đích trừng trị, giáo dục bị cáo và thể hiện được tính nhân đạo của pháp luật.

[5] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự: Bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, xét việc áp dụng hình phạt bổ sung là không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng thu giữ trong vụ án:

Đối với xe đạp địa hình nhãn hiệu ALCOTT màu xanh - đen - trắng. Quá trình điều tra xác định là tài s ản hợp pháp của chị Chu Thị T. Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA LEAD, màu bạc - đen, biển kiểm soát 26B2- X. Quá trình điều tra xác định là tài s ản hợp pháp của chị Tòng Thị B ngày 13/10/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La đã ra quyết định xử lý vật chứng trao trả tài sản cho chị Chu Thị T và chị Tòng Thị B quản lý, sử dụng.

Xét việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La đã trả lại tại sản cho bị hại và người liên quan là có căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, cần chấp nhận.

[7] Về Trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 13 của Bộ luật Dân sự:

Đối với xe đạp địa hình nhãn hiệu ALCOTT màu xanh - đen - trắng. Quá trình điều tra xác định sau khi chiếm đoạt của chị Chu Thị T, bị cáo đã bán cho anh Lò Văn M với giá 550.000,đồng. Ngày 25/10/2023, đại diện gia đình Trần Xuân H (bà Đặng Thị Thành - mẹ đẻ H) tự nguyện bồi thường cho anh Lò Văn M số tiền 550.000 đồng. Anh M đồng ý với việc bồi thường trên và không có yêu cầu nào khác.

Chị Tòng Thị B, chị Chu Thị T không có yêu cầu bị cáo bồi thường.Xét yêu cầu của bị hại và người liên quan là hoàn toàn tự nguyện nên cần chấp nhận.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo Trần Xuân H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Vê tôi danh va hinh phat:

Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 15; Điều 57; điểm b, i, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Trần Xuân H phạm tội: “Trộm cắp tài sản” (chưa đạt).

Xử phạt bị cáo Trần Xuân H 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng tính từ này tuyên án sơ thẩm (ngày 18/12/2023).

Giao bị cáo Trần Xuân H cho Ủy ban nhân dân phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo Trần Xuân H có trách nhiệm phối hợp với UBND phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La giám sát và giáo dục bị cáo.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Căn cứ Điều 328 Bộ luật tố tụng Hình sự: Tuyên bố trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo Trần Xuân H nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội khác.

2.Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 13 của Bộ luật Dân sự:

- Chấp nhận sự tự nguyện của chị Chu Thị T, chị Tòng Thị B không yêu cầu bị cáo Trần Xuân H bồi thường.

- Chấp nhận sự tự nguyện của gia đình bị cáo đã bồi thường cho anh Lò Văn M số tiền 550.000 đồng (năm trăm năm mươi đồng).

3. Về vật chứng vụ án: Căn cứ Khoản 2 điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a, b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã trả cho chị Tòng Thị B 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA LEAD, màu bạc - đen, biển kiểm soát 26B2-166 đã qua sử dụng. (theo biên bản về việc trả lại tài sản, đồ vật, tài liệu ngày 13/10/2023 của Công an thành phố Sơn La).

- Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã trả cho chị Chu Thị T 01 xe đạp nhãn hiệu ALCOTT màu xanh - đen - trắng đã qua sử dụng. (theo biên bản về việc trả lại tài sản, đồ vật, tài liệu ngày 13/10/2023 của Công an thành phố Sơn La).

4.Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21, điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14: Buộc bị cáo Trần Xuân H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Bị cáo Trần Xuân H được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 18/12/2023);

Người bị hại chị Tòng Thị B có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày tòa án niêm yết công khai bản án.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt, có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày tòa án niêm yết công khai bản án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 24/2023/HS-ST

Số hiệu:24/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về