Bản án về tội trộm cắp tài sản số 17/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 17/2024/HS-ST NGÀY 06/03/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 3 năm 2024, tại Toà án nhân dân thị xã C, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 12/2024/HSST ngày 24 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2024/QĐXX-HS ngày 21 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:

MAI SỸ N, sinh ngày 10/10/1996 tại tỉnh B; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ 9, khu phố 9, phường MH, thị xã CT, tỉnh B; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Mai Sỹ Ch, sinh năm 1958 và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1960; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 31/10/2023 đến ngày 08/11/2023. Từ ngày 08/11/2023, bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay.

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân thị xã C, tỉnh B truy tố về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Công ty Cổ phần Giấy KN; địa chỉ: Khu công nghiệp MH III, phường MH, thị xã C, tỉnh B Người đại diện theo pháp luật: Ông Liêu Bình A – Chức vụ: Giám đốc Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Đình K- Chức vụ: Nhân viên

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Mai Sỹ N là công nhân bộ phận bảo trì thiết bị điện của Công ty Cổ phần Giấy KN (gọi tắt Công ty KN), địa chỉ Khu Công nghiệp MH III, phường MH, thị xã C, tỉnh B.

Khoảng 16 giờ ngày 29/10/2023, N đến Công ty KN để làm việc. Do nợ nần và không có tiền tiêu xài, N biết tại xưởng “Cơ khí” để nhiều cuộn dây cáp điện có lõi đồng bên trong nên N nảy sinh ý định cắt trộm cáp điện của Công ty bán lấy tiền. Khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, N mang theo 01 con dao rọc giấy và 02 bao tải màu trắng đến xưởng cơ khí để cắt trộm dây cáp điện lõi đồng. Khi đến xưởng, N đến tủ đựng dụng cụ của xưởng rồi lấy 01 cây kìm cộng lực để làm công cụ cắt dây cáp điện rồi tiếp tục đi đến nơi để các cuộn dây cáp điện, sử dụng dao rọc giấy cắt bỏ vỏ nhựa màu đen của dây điện. Trong dây cáp điện có 04 lõi đồng được bọc vỏ nhựa màu trắng nên N dùng tay tách riêng 04 lõi đồng này ra rồi sử dụng kìm cộng lực để cắt. N cắt được số lượng lõi đồng dài khoảng 40m với tổng trọng lượng 63,5kg. Sau đó, N tiếp tục dùng kìm cộng lực cắt các lõi đồng thành 76 đoạn, chiều dài từ 30cm đến 40cm rồi bỏ vào 02 bao tải màu trắng. N đưa 02 bao tải chứa các đoạn lõi đồng cất giấu tại khu vực góc tủ đựng dụng cụ của xưởng.

Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, anh Lê Văn Đ, sinh năm: 1994, địa chỉ: Khu phố 3B, phường MH, thị xã CT, tỉnh B là công nhân xưởng bảo trì cơ khí của Công ty KN đi đến xưởng cơ khí để lấy đồ thì gặp N ở đây. N nhờ Đ hỗ trợ đưa 02 bao tải chứa dây lõi đồng lên xe nâng thì anh Đ đồng ý. Sau khi phụ N đưa 02 bao tải chứa các đoạn lõi đồng lên xe nâng, anh Đ hỏi “Lấy cái gì vậy N?”, sợ bị anh Đ phát hiện, N nói dối “ba cái đồ linh tinh lặt vặt ấy mà” rồi điều khiển xe nâng đi ra khỏi xưởng. Tiếp đó, N điều khiển xe nâng đến góc hàng rào của Công ty rồi luồn qua khe hở hàng rào đưa 02 bao tải chứa các đoạn lõi đồng ra phía bên ngoài hàng rào.

Đến 00 giờ 00 phút ngày 30/10/2023, sau khi tan làm về, N đi đến nơi để 02 bao tải đựng các đoạn lõi đồng để chở về nhà nhưng có một nhóm người đang ngồi gần đó nên N không dám lấy và đi về nhà. Đến khoảng 02 giờ 00 cùng ngày, N quay lại nhưng nhóm người trên vẫn đang ngồi nhậu nên N quay về nhà ngủ.

Vào khoảng 07 giờ 30 phút cùng ngày, bảo vệ Khu Công Nghiệp MH III phát hiện 02 bao tải chứa các đoạn lõi đồng nên trình báo Đồn Công an khu Công nghiệp Minh Hưng.

Qua truy xét, Đồn Công an Khu Công nghiệp Minh Hưng mời Mai Sỹ N về trụ sở làm việc. Tại Cơ quan điều tra, N khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản như đã nêu trên.

Kết luận định giá tài sản số 88/KLĐG-HĐĐGTS ngày 06/11/2023 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thị xã C kết luận: 63,5kg lõi đồng dây cáp điện tại thời điểm bị chiếm đoạt trị giá 10.160.000 đồng (Mười triệu một trăm sáu mươi nghìn).

* Về tạm giữ đồ vật, tài liệu:

+ 01 kìm sắt kim loại (dạng kìm cộng lực), kích thước (0,82x12)cm, kìm cắt cán màu xanh – cam, lưỡi cắt kim loại màu đen.

+ 76 đoạn dây lõi kim loại (đồng) màu vàng, bên ngoài bọc nhựa trắng đường kính 20mm và 20 đoạn dây lõi kim loại (đồng) màu vàng, bên ngoài bọc nhựa trắng đường kính 15 mm, tổng trọng lượng 63,5kg.

Quá trình điều tra xác định những tài sản trên thuộc sở hữu hợp pháp của Công ty KN. Cơ quan CSĐT Công an thị xã C đã xử lý vật chứng trả lại cho Công ty đúng quy định.

+ 02 bảo tải màu trắng cùng kích thước 0,8m x 0,5m và 01 dao rọc giấy, màu đỏ.

+ 01 USB chứa 05 đoạn Video do Công ty KN giao nộp để phục vụ điều tra.

* Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại Công ty KN đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì khác nên trách nhiệm dân sự không đặt ra.

Bản cáo trạng số 19/CT-VKSCT ngày 22/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã C, tỉnh B đã truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã C truy tố đối với bị cáo.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã C: Viện kiểm sát nhân dân thị xã C giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Mai Sỹ N về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51; các điều 38; 50, 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo mức án từ 09 (Chín) tháng đến 12 (Mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng; đề nghị xử lý vật chứng theo quy định.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã C, tỉnh B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã C, tỉnh B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã C đã truy tố. Xét lời khai của bị cáo phù hợp lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được tranh tụng công khai tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 29/10/2023, bị cáo Mai Sỹ N đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 63,5kg lõi đồng dây cáp điện của Công ty KN, địa chỉ: Khu công nghiệp MH III, phường MH, thị xã C, tỉnh B. Giá trị tài sản chiếm đoạt là 10.160.000 đồng (Mười triệu một trăm sáu mươi nghìn).

Đối chiếu với quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã C truy tố đối với bị cáo Mai Sỹ N theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý, khi phạm tội bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo

[3.1] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[3.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Căn cứ tính chất mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy bị cáo có nơi cư trú ổn định, không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội, chỉ cần áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo cũng đủ răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Qua đó, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, tạo điều kiện cho bị cáo tự cải tạo giáo dục, thành người có ích cho xã hội.

[4] Về xử lý vật chứng:

+ 01 kìm sắt kim loại (dạng kìm cộng lực), kích thước (0,82x12)cm, kìm cắt cán màu xanh – cam, lưỡi cắt kim loại màu đen.

+ 76 đoạn dây lõi kim loại (đồng) màu vàng, bên ngoài bọc nhựa trắng đường kính 20mm và 20 đoạn dây lõi kim loại (đồng) màu vàng, bên ngoài bọc nhựa trắng đường kính 15 mm, tổng trọng lượng 63,5kg.

Quá trình điều tra xác định những tài sản trên thuộc sở hữu hợp pháp của Công ty KN. Cơ quan CSĐT Công an thị xã C đã xử lý vật chứng trả lại cho Công ty là đúng quy định.

+ 02 bảo tải màu trắng cùng kích thước 0,8m x 0,5m và 01 dao rọc giấy, màu đỏ là công cụ bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội và không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.

+ 01 USB chứa 05 đoạn Video do Công ty KN giao nộp phục vụ điều tra cần lưu theo hồ sơ vụ án.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại Công ty KN đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Các vấn đề khác của vụ án: Anh Lê Văn Đ là người hỗ trợ bị cáo Mai Sỹ N đưa 02 bao tải chứa lõi dây đồng lên xe nâng nhưng anh Đ không biết đây là tài sản do bị cáo trộm cắp nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý đối với Đ là đúng quy định.

[7] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Mai Sỹ N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về áp dụng điều luật và hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; các điểm i, s khoản 1, Điều 51; Điều 50; Điều 38, 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Mai Sỹ N 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (Mười tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho UBND phường Minh Hưng, thị xã C, tỉnh B quản lý, giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bán án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bán án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

+ Tịch thu tiêu hủy 02 bảo tải màu trắng cùng kích thước 0,8m x 0,5m và 01 dao rọc giấy, màu đỏ.

+ Lưu trong hồ sơ vụ án 01 USB chứa 05 đoạn Video do Công ty KN giao nộp.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Mai Sỹ N phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

6. Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 17/2024/HS-ST

Số hiệu:17/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chơn Thành - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về