Bản án về tội trộm cắp tài sản số 17/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN THÀNH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 17/2023/HS-ST NGÀY 22/02/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện T mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 07/2023/TLST-HS, ngày 02/02/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2023/QĐXXST-HS, ngày 07/02/2023 đối với bị cáo:

Phạm Văn M, sinh năm 2001.

Trú tại: Thôn Đại Trạch, xã Đình Tổ, huyện T, tỉnh B; trình độ văn hoá: 02/12; nghề nghiệp: lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn Q, sinh năm 1958 và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1958; gia đình có 04 anh em, bị cáo là út; chưa có vợ.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/11/2022 đến ngày 08/12/2022, hiện tại ngoại (có mặt tại phiên tòa).

Người bị hại:

1. Chị Phạm Thu P, sinh năm 1985 (vắng mặt).

Trú tại: Số 7/33/199, Hồ Tùng Mậu, phường Cầu Diễn, quận N, tp H.

2. Chị Vũ Thị H, sinh năm 1986 (vắng mặt).

Trú tại: Số 28, ngõ 12, đường 800A, phường Nghĩa Đô, quận C, tp H.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Bá Tr, sinh năm 1994. Trú tại: Thanh Hoài, Thanh Khương, T, B (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 10 giờ ngày 28/11/2022, Phạm Văn M đi xe môtô hiệu Honda Wave, BKS: 99F1 - xxxxx một mình từ nhà đến Đền Kinh Dương Vương với mục đích xem có ai đi lễ sơ hở để trộm cắp tài sản. Khi đến cổng Đền Kinh Dương Vương thì M dựng xe môtô ở cổng phụ, M đi bộ vào trong gian thờ của Đền thấy có tiền để ở đĩa trên ban thờ nhưng do có người nên M không lấy được nên đi ra ngoài. M đi bộ đến khu vực nhà khách của Đền thì nhìn thấy 01 túi xách màu đen có hai ngăn, có khóa kéo để trên ghế đá sát nhà khách không có người quản lý. M kéo khóa của túi xách thì thấy bên trong có 01 ví da màu hồng, M mở ví ra thấy có tiền thì nhanh chóng gập ví lại và cất giấu tại túi quần phía trước bên trái đang mặc. M mở ngăn khóa còn lại thì thấy có 02 chiếc điện thoại có ốp lưng màu hồng và màu đen, M lấy 02 chiếc điện thoại và cất giấu vào trong túi quần bên phải và kéo khóa túi xách lại. Lúc này có ông Ngô Đức Lơ, sinh năm 1960, HKTT: Thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện T là người trông coi Đền Kinh Dương Vương từ nhà khách đi ra hỏi M: “Mày làm gì đấy” thì M trả lời: “Cháu không làm gì”. Sau đó M ra lấy xe môtô để đi về. Khi về đến nhà M lấy điện thoại vừa trộm cắp được ra kiểm tra, tháo ốp lưng và sim của 02 chiếc điện thoại ra. Sau khi lấy ra kiểm tra, M biết 02 chiếc điện thoại vừa trộm cắp được gồm: 01 điện thoại Samsung Galaxy Note 10 Plus màu xanh có ốp lưng màu hồng và 01 điện thoại Xiaomi Redmi 10C màu xanh có ốp lưng màu đen đều có mật khẩu mở máy, M kiểm tra ví da màu hồng bên trong có 180.000đ. Sau đó M điều khiển xe môtô đến cửa hàng điện thoại “TRÍCH MOBILE” gặp anh Nguyễn Bá Tr, sinh năm 1994 ở thôn Thanh Hoài, xã Thanh Khương, huyện T là chủ cửa hàng. M nói với anh Tr 02 chiếc điện thoại trên là của mình và đề nghị bán lại. Anh Tr tin tưởng nên đã mua 02 chiếc điện thoại trên với số tiền 4.600.000đ. Số tiền trên M ăn tiêu cá nhân hết.

Ngày 29/11/2022, nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, M đã đến Công an huyện T đầu thú khai báo hành vi phạm tội và giao nộp:

- 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave, màu xanh đen bạc, BKS: 99F1 - xxxxx.

- 01 chiếc ví da màu hồng; 01 ốp lưng điện thoại màu hồng; 01 ốp lưng điện thoại màu đen; 01 sim số 0984.907.850; 01 sim số 0967.703.981; 01 chiếc áo cộc tay có cổ màu đen; 01 chiếc quần bò dài màu đen; 01 đôi dép màu đen.

Ngày 29/11/2022, anh Nguyễn Bá Tr tự nguyện giao nộp: 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy Note 10 Plus, số IMEI: 358592105296838, màu xanh, bên trong không lắp sim; 01 chiếc điện thoại Xiaomi Redmi 10C, số IMEI: 864763065483289, màu xanh, bên trong không lắp sim.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 47/KLĐG - HĐĐG, ngày 01/12/2022 của Hội đồng định giá đã kết luận:

“01 chiếc điện thoại Xiaomi Redmi 10C màu xanh đã qua sử dụng có giá trị còn lại là 2.000.000đ; 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy Note 10 Plus màu xanh đã qua sử dụng có giá trị còn lại là 7.000.000đ. Tổng giá trị tài sản là 9.180.000đ'.

Đối với 02 chiếc ốp lưng điện thoại và 01 ví da màu hồng là tài sản có giá trị nhỏ, chị P và chị H không yêu cầu định giá.

Bản cáo trạng số: 11/CT-VKSTT, ngày 31/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố Phạm Văn M về tội “trộm cắp tài sản”, theo khoản 1, điều 173 của Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T giữ quyền công tố trước phiên toà sau khi phân tích tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân bị cáo, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố Phạm Văn M về tội “trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, điều 173; điều 65; điểm b, i, s, khoản 1, 2 điều 51; điều 47 Bộ luật hình sự; điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự xử phạt M từ 08 đến 11 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo,thời gian thử thách từ 16 đến 22 tháng.

Tịch thu tiêu huỷ: 01 chiếc áo cộc tay có cổ màu đen; 01 chiếc quần bò dài màu đen; 01 đôi dép màu đen.

Lưu hồ sơ 01 thẻ nhớ.

Bị cáo nhận tội và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Công an huyện T, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện T, đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo không có khiếu nại gì. Do vậy các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng trên đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, vật chứng đã thu hồi được và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10h ngày 28/11/2022 tại ghế đá trước cửa nhà khách Đền Kinh Dương Vương thuộc thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện T. Phạm Văn M đã có hành vi lén lút,bí mật chiếm đoạt: 01 điện thoại Xiaomi Redmi 10C màu xanh có ốp lưng màu đen trị giá 2.000.000đ và số tiền 180.000đ bên trong chiếc ví da màu hồng của chị Phạm Thu P; 01 điện thoại Samsung Galaxy Note 10 Plus màu xanh có ốp lưng màu hồng trị giá 7.000.000đ của chị Vũ Thị H. Tổng giá trị là 9.180.000đ. Hành vi của Phạm Văn M đã phạm tội “trộm cắp tài sản”, phạm vào khoản 1, điều 173 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố là đúng người, đúng tội.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, rất táo bạo và liều lĩnh, đã gây mất trật tự trị an trên địa bàn huyện T, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, dư luận xã hội đòi hỏi phải xử lý nghiêm. Bởi vậy, cần phải có một hình phạt nghiêm nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét thấy, bản thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; sau khi phạm tội đã đến Công an đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;;tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn, hối cải; đã tự nguyện bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả cho người bị hại và người liên quan; người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, i, s, khoản 1, 2 điều 51 Bộ luật hình sự. Do vậy, cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần khi quyết định hình phạt, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đủ điều kiện giáo dục, cải tạo.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Hai chiếc điện thoại di động do bị cáo chiếm đoạt đã được cơ quan điều tra trả lại cho chị Phạm Thu P và chị Vũ Thị H, chị P và chị H không có yêu cầu gì, do vậy không xem xét.

Đối với số tiền bị cáo chiếm đoạt của chị P là 180.000đ và số tiền bị cáo bán 02 chiếc điện thoại cho anh Nguyễn Bá Tr được 4.600.000đ. Bị cáo đã bồi thường đầy đủ cho chị P và anh Tr, do vậy không xem xét.

Trong vụ án này anh Nguyễn Bá Tr là người mua 02 chiếc điện thoại của bị cáo M, nhưng không biết đó là tài sản do phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp.

[4] Về vật chứng: Cơ quan điều tra có thu giữ 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave, BKS: 99F1-xxxxx. Đây là xe của chị Nguyễn Thị Huyền, sinh năm 2006 ở thôn Tú Tháp, xã Song Hồ, huyện T là bạn M. Ngày 27/11/2022, chị Huyền cho M mượn xe và không biết việc M sử dụng xe để trộm cắp tài sản. Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Huyền chiếc xe trên, do vậy không xem xét.

Cơ quan điều tra có thu giữ của bị cáo: 01 chiếc áo cộc tay có cổ màu đen; 01 chiếc quần bò dài màu đen; 01 đôi dép màu đen. Xét thấy không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 thẻ nhớ cần lưu hồ sơ vụ án.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố bị cáo Phạm Văn M phạm tội “trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1, điều 173; điều 65; điểm b, i, s, khoản 1, 2 điều 51; điều 47 Bộ luật hình sự; điểm c, khoản 2, điều 106; điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội qui định về án phí, lệ phí Toà án:

Xử phạt: Phạm Văn M 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho UBND xã Đình Tổ, huyện T, tỉnh B nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1, điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Tịch thu tiêu huỷ: 01 chiếc áo cộc tay có cổ màu đen; 01 chiếc quần bò dài màu đen; 01 đôi dép màu đen.

Lưu hồ sơ 01 thẻ nhớ.

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 17/2023/HS-ST

Số hiệu:17/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Thành - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về