Bản án về tội trộm cắp tài sản số 16/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRIỆU SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 16/2020/HS-ST NGÀY 24/03/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 03 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 07/2020/TLST-HS ngày 21 tháng 01 năm 2020, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10 /2020/QĐXXST-HS ngày 19/02/2020, đối với bị cáo; Hà Thọ H sinh năm 1989 (tên gọi khác là V) sinh tại huyện S tỉnh H; Nơi cư trú: Thôn Th, xã Th, huyện S, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hà Thọ V (đã chết) và bà Hà Thị N sinh năm 1956; chưa có vợ, con; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 06/9/2012 bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân - thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 2 năm 3 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999. Hiện chưa nộp án phí. Ngày 30/8/2016 bị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 18 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 1999 đã chấp hành xong. Ngày 08/3/2019, bị Công an huyện Triệu Sơn xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác”; H chưa thực hiện việc nộp phạt. Ngày 13/11/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 5 năm 6 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015;

thời gian chấp hành hình phạt tính kể từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là 05/02/2019 hiện đang chấp hành án (có mặt tại phiên tòa).

* Bị hại: Anh Nguyễn Văn N - Sinh năm 1985 Nơi cư trú: Thôn Th, xã L, huyện S, tỉnh H (vắng mặt)

* Người làm chứng:

1. Anh Hà Xuân Ngh Sinh năm 1979

2. Anh Hà Xuân Á Sinh năm 1970 Đều cư trú: Thôn Th, xã Th, huyện S- tỉnh H (đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 19/02/2012, Hà Thọ H sinh năm 1989, ở thôn Th, xã Th, huyện S, tỉnh H đi cùng xe mô tô với Hà Xuân Ngh đi chơi. Trên đường H chở Ngh về nhà phát hiện thấy vườn cây cảnh nhà anh Nguyễn Văn N ở thôn Th, xã L không có người trông coi, Ngh rủ H vào lấy trộm cây cảnh, H đồng ý và đứng ngoài đường cảnh giới còn Ngh trèo tường vào trong vườn để trộm cắp cây. Vào bên trong, Ngh quan sát thấy 03 (ba) cây tùng cảnh liền dùng tay nhổ ba cây tùng rồi chuyển ra ngoài, cùng H mang về nhà Ngh. Đến ngày 21/02/2012, H đến nhà Ngh lấy 01 cây tùng đi bán cho anh Hà Xuân Á sinh năm 1970, ở thôn Th, xã Th, huyện S với giá 200.000đ tiêu xài cá nhân. Ngày 04/03/2012, anh Nguyễn Văn N phát hiện hai cây tùng của mình ở trong vườn nhà Ngh nên báo công an, đến ngày 05/03/2012 thì Ngh đến Công an huyện S đầu thú và giao nộp lại 03 cây tùng cho Công an huyện S.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 06/03/2012 của Hội đồng định giá tài sản UBND huyện Triệu Sơn kết luận: 03 (ba) cây tùng trị giá 6.000.000đ (sáu triệu đồng).

Ngày 08/03/2012 Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Triệu Sơn đã trả lại 03 cây tùng cho anh Nguyễn Văn Nam và bị hại anh Nam không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường và không có yêu cầu gì thêm.

Qua quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, sau khi xét hỏi và tranh luận, Hà Thọ H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng.

Cáo trạng số: 10/CT-VKS ngày 20/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố Hà Thọ H về tội “Trộm cắp tài sản”, theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Sơn đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình phạt chính: Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm h, p khoản 1 Điều 46; Điều 20, Điều 53; Điều 33 BLHS 1999 xử phạt Hà Thọ H từ 09 đến 12 tháng tù giam.

Áp dụng khoản 1 Điều 56 BLHS 2015, tổng hợp với phần hình phạt 66 tháng tù của bản án số 58/2019/HSST ngày 13/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Triệu Sơn buộc H phải chấp hành hình phạt chung của bản án trước. Thời hạn tù được trừ đi thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập nên đề nghị miễn phạt tiền.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại sau khi nhận lại tài sản không có yêu cầu gì thêm; anh Hà Xuân Á là người đã mua 01 cây tùng cảnh từ H nay cũng không yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

Về xử lý vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra đã trả cho chủ sở hữu tài sản là phù hợp đúng với quy định của pháp luật nên không xem xét.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử cho mức án thấp nhất để sớm về với gia đình và xã hội; bố đã chết, còn có mẹ già yếu ở nhà; bị cáo xin hứa sẽ là người có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Hành vi của bị cáo, khoảng 20 giờ ngày 19/02/2012, Hà Thọ H đi chơi cùng với Hà Xuân Ngh bằng xe môtô, trên đường H chở Ngh về nhà, Ngh phát hiện thấy vườn cây cảnh nhà anh Nguyễn Văn N không có người trông coi, nên Nghiêm rủ H vào lấy trộm cây cảnh, H đồng ý và đứng ngoài đường cảnh giới còn Ngh trèo tường vào trong vườn để lấy trộm cây. Vào bên trong, Ngh quan sát thấy 03 (ba) cây tùng cảnh liền dùng tay nhổ ba cây rồi chuyển ra ngoài, cùng H mang về nhà Ngh. Đến ngày 04/03/2012, anh Nguyễn Văn N phát hiện hai cây tùng của mình ở trong vườn nhà Ngh nên báo công an, đến ngày 05/03/2012 thì Nghiêm đến Công an huyện S đầu thú và giao nộp 03 cây tùng cho Công an.

Quá trình điều tra H đã bỏ trốn khỏi địa phương, ngày 22/4/2012 Cơ quan cảnh sát điều tra huyện Triệu Sơn đã ra quyết định truy nã. Ngày 08/5/2012 Công an đã tách vụ hành vi của H để điều tra xử lý sau. Ngày 08/6/2012 đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ bị can do hết thời hạn điều tra, bị can đang bỏ trốn. Ngày 06/9/2012 bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân - thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 2 năm 3 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999. Ngày 30/8/2016 bị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 18 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 1999. Ngày 13/11/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 5 năm 6 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 06/03/2012 của Hội đồng định giá tài sản UBND huyện Triệu Sơn kết luận: 03 (ba) cây tùng trị giá 6.000.000đ (sáu triệu đồng).

Hành vi của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản báo cáo của bị hại, kết luận định giá tài sản và các tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

Như vậy Hội đồng xét xử nhận thấy đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Hà Thọ H phạm tội “Trộm cắp tài sản”; tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Vụ án thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng, tính chất và mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của các bị cáo: Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn, nhưng ảnh hưởng đến trật tự trị an xã hội và trên địa bàn, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây bức xúc trong dư luận quần chúng nhân dân; bị cáo nhận thức đầy đủ về tính chất nguy hiểm cũng như hậu quả của hành vi do mình thực hiện, nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm nên phạm tội do lỗi cố ý trực tiếp. Theo quy định tại Điều 20 và Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 1999 (tương ứng với Điều 17 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015) đây là đồng phạm giản đơn, vai trò của bị cáo xếp thứ hai, bị cáo là người đứng cảnh giới cho Hà Xuân Ngh vào trộm cắp.

Động cơ và mục đích của bị cáo là muốn có tiền tiêu dùng cá nhân nhưng không chịu khó lao động nên đi trộm cắp tài sản.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tiền án không; tiền sự không; bị cáo có nhân thân xấu nên cần phải xử phạt tù, nhằm giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành người tốt. Nhưng khi lượng hình phạt cũng cần xem xét giảm hình phạt cho bị cáo, vì sau khi bị bắt và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên cho bị cáo hưởng điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 (tương ứng với điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015).

Cần phải tổng hợp hình phạt của bản án này với bản án số 58/2019/HSST ngày 13/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 5 năm 6 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015, được quy định theo Điều 56 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14, ngày 20/6/2017, của Quốc hội và Công văn số 04/TANDTC-PC ngày 09/01/2018 của Tòa án nhân dân tối cao nên cho bị cáo được hưởng mức khoan hồng của chính sách pháp luật hình sự năm 1999 là phù hợp.

Bị cáo trộm cắp tài sản mục đích là muốn có tiền tiêu sài cá nhân, vì hoàn cảnh gia đình đầu khó khăn; bản thân không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với Hà Xuân Nghiêm và các vấn đề liên quan khác trong vụ án, như vật chứng đã được Tòa án nhân dân huyện Triệu Sơn giải quyết vào ngày 10/7/2012 nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về bồi thường thiệt hại: Anh Hà Thọ Á và Nguyễn Văn N không có yêu cầu gì thêm, đây là dân sự, là sự tự nguyện không trái với đạo đức xã hội và quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đề nghị của Viện kiểm sát: Về phần dân sự và mức đề nghị hình phạt của Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo là phù hợp, có căn cứ đủ để giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.

[3] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999; Điều 38; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo: Hà Thọ H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo: 08 (tám) tháng tù.

Tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt 5 (năm) năm 6 (sáu) tháng tù của bản án số 58/2019/HSST ngày 13/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Triệu Sơn, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 6 (sáu) năm 02 (hai) tháng tù; Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày 05/02/2019.

Về bồi thường thiệt hại: Các bên tự nguyện không yêu cầu bồi thường.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Hà Thọ H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày 24 tháng 3 năm 2020.

Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở chính quyền xã nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

45
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 16/2020/HS-ST

Số hiệu:16/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Triệu Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về