TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MÓNG CÁI, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 14/2022/HSST NGÀY 15/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 15 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 06/2022/TLST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2022/QĐXXST- HS ngày 25 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:
Nguyễn Trung K (tên gọi khác: không); sinh ngày 18/01/1997, tại: Móng Cái, Quảng Ninh; Nơi cư trú: thôn xx, xã H, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn Nh và bà Nguyễn Thị K; vợ con: chưa có; tiền án, tiền sự: chưa; đầu thú ngày 13 tháng 12 năm 2021 áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú và Tạm hoãn xuất cảnh, hiện tại ngoại. Có mặt.
- Bị hại: anh Nguyễn Bá Q, sinh năm 1977; nơi đăng ký thường trú: thôn T, xã Đ, huyện C, thành phố Hà Nội; nơi đăng ký tạm trú: thôn xx, xã H, thành phố MC, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Người có quyền lợi nghĩa vụ, liên quan:
1. Anh Vũ Đức T, sinh năm 1990, nơi cư trú: Khu xx, phường M, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).
2. Anh Sằn A C, sinh năm 1991, nơi cư trú: thôn T, xã B, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 23/7/2021 vào khoảng 13 giờ chiều, Nguyễn Trung K đi đến khu vực thôn xx, xã H, thành phố Móng Cái để câu cá. Khi đi qua khu đồi của anh Nguyễn Bá Q thấy trong sân phía trước nhà có 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát 14k1 - 184.49 chìa khoá cắm ở ổ khoá xe, không có người trông coi nên K đã nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe mô tô trên để bán lấy tiền mua ma túy. Sau khi lấy trộm được xe K đi xuống trung tâm thành phố Móng Cái để tìm nơi tiêu thụ. Do không có giấy đăng ký xe nên K không bán và không cầm cố xe được. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, K đi xe đến quán nước gần bến xe khách Móng Cái thì gặp anh Vũ Đức T. K đặt vấn đề vay 3.000.000đ (ba triệu đồng) nhưng anh T không đồng ý, sau đó Kiên nói để lại chiếc xe mô tô trên cho anh Tiến để làm tin nên anh T đồng ý. Sau khi vay được tiền K dùng toàn bộ số tiền đi mua ma túy rồi sử dụng hết cho bản thân. Đến ngày 13/12/2021, anh Nguyễn Bá Q đến Công an thành phố Móng Cái trình báo và biết không thể che giấu được hành vi phạm tội nên K đã đến đầu thú tại Công an thành phố Móng Cái.
Sau khi biết sự việc, anh Vũ Đức T đã giao nộp cho Công an thành phố Móng Cái xe mô tô nhãn hiệu Honda-Wave, biển kiểm soát 14K1 - 184.49.
Tại bản kết luận định giá số 1338/KL-HĐĐGTS ngày 13/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Móng Cái đã kết luận: xe mô tô nhãn hiệu Honda-Wave, màu đen bạc, biển kiểm sát 14K1 - 184.49, số máy: JA39E0176249, số khung: RLHJA3908HY176197, trị giá 12.500.000 đồng (mười hai triệu năm trăm nghìn đồng).
Quá trình điều tra bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Bị hại anh Nguyễn Bá Q trong quá trình điều tra có lời khai thể hiện như nội dung vụ án. Anh Q đã nhận lại chiếc xe và không yêu cầu bị cáo bồi thường. Trong đơn xin xét xử vắng mặt anh Q xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Vũ Đức T trong quá trình điều tra và trong đơn xin xét xử vắng mặt có lời khai thể hiện việc anh cho K vay 3.000.000đ (ba triệu đồng) và để lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda-Wave, màu đen bạc, biển kiểm sát 14K1 - 184.49 để làm tin, anh hoàn toàn không biết chiếc xe trên do Kiên chiếm đoạt của người khác. Đến nay bị cáo đã trả lại cho anh số tiền đã vay trước đó, nên anh không có yêu cầu gì đối với bị cáo.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Sằn A C trong quá trình điều tra có lời khai thể hiện đầu năm 2021 anh có bán chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda -Wave, màu đen bạc, biển kiểm sát 14K1 - 184.49 cho anh Q, việc mua bán giữa hai bên không có giấy tờ, nhưng anh đã giao lại giấy đăng ký xe cho anh Q. Vì đã bán chiếc xe trên nên đến nay anh không có liên quan.
Bản cáo trạng số: 10/CT - VKSMC ngày 13/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố bị cáo Nguyễn Trung K, về tội:“Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà: bị cáo khai lại toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung vụ án và quá trình điều tra.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo như nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung K từ 09 (chín) tháng đến 12 (mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời gian thử thách từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (hai mươi bốn) tháng.
Giao bị cáo Nguyễn Trung K cho Ủy ban nhân dân xã Hải Đông, thành phố Móng Cái giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung.
Bị cáo không tranh luận với lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát và nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Móng Cái, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Nhận định của Hội đồng xét xử về những chứng cứ xác định bị cáo có tội.
Đánh giá nội dung Đơn trình báo ngày 13/12/2021; Biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú ngày 13/12/2021; Kết luận định giá tài sản số 1338/KL - HĐĐGTS ngày 13/12/202 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự thành phố Móng Cái; các lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa; lời khai của bị hại; lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận: ngày 23/7/2021 tại thôn xx, xã H, thành phố Móng Cái Nguyễn Trung K có hành vi chiếm đoạt chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda-Wave, màu đen bạc, biển kiểm sát 14K1 - 184.49 của anh Nguyễn Bá Q, trị giá 12.500.000đ (mười hai triệu năm trăm nghìn đồng).
Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi do lỗi cố ý, mặc dù biết pháp luật nghiêm cấm việc chiếm đoạt bất hợp pháp tài sản của người khác, nhưng vẫn lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Hành vi của bị cáo xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Do đó, hành vi chiếm đoạt tài sản có giá trị 12.500.000đ (mười hai triệu năm trăm nghìn đồng) nên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Như vậy, quan điểm truy tố và luận tội của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái là có căn cứ pháp lý.
[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi là nghiêm tr ng và nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, hành vi chiếm đoạt được chiếc xe và mang đi cầm cố như vậy tội phạm mà bị cáo thực hiện đã hoàn thành. Đây là hành vi nguy hiểm trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ và xâm phạm anh ninh, trật tự xã hội. Mặc dù nhận thức rõ pháp luật nghiêm cấm, nhưng để có tiền tiêu xài nên bị cáo nảy sinh ý định chiếm đoạt bất hợp pháp tài sản của người khác. Vì vậy, cần xử lý nghiêm, mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, phòng ngừa chung.
[4] Về áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hình phạt bổ sung.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm tr ng; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú; tự nguyện bồi thường số tiền đã vay cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và năm 2017 bị cáo đã từng tham gia nghĩa vụ quân sự nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
- Về hình phạt bổ sung: theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo công việc không ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Sau khi xem xét, đánh giá tính chất của vụ án, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng. Do đó xét thấy không cần phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù, nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự cho bị cáo được cải tạo, giáo dục tại địa phương để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà tích cự cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.
[6] Về vật chứng và bồi thường dân sự: chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda- Wave, màu đen bạc, biển kiểm sát 14k1 - 184.49 cơ quan điều tra đã trả lại cho bị hại và bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Đối với số tiền 3.000.000đ (ba triệu đồng) bị cáo đã trả cho anh Tiến và anh Tiến không có yêu cầu gì đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về nghĩa vụ chịu án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[8] Về quyền kháng cáo: bị cáo; bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định.
[9] Đối với anh Vũ Đức Tiến nhận cầm cố chiếc xe mô tô do Kiên chiếm đoạt của người khác, tuy nhiên anh Tiến không biết đó là tài sản do bị cáo trộm cắp, nên không có căn cứ để xử lý.
- Đối với hành vi sử dụng ma túy của bị cáo, Công an thành phố Móng Cái đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt Cảnh cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Trung K, phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung K 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng, kể từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo Nguyễn Trung K cho Ủy ban nhân dân xã Hải Đông, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Căn cứ vào điểm d khoản 1 Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” đã áp dụng đối với bị cáo Nguyễn Trung Kiên theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 07/LCCC - TA, ngày 25/02/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.
2. Về nghĩa vụ chịu án phí:
Áp dụng: khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Nguyễn Trung K phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo:
Áp dụng: khoản 1, khoản 4 Điều 331 và khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Án xử sơ thẩm công khai bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 14/2022/HSST
Số hiệu: | 14/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Móng Cái - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về