Bản án về tội trộm cắp tài sản số 14/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 14/2022/HS-ST NGÀY 18/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 18 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 04/2022/TLST-HS ngày 26 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2022/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 3 năm 2022 đối với:

- Bị cáo: Nguyễn Hoàng Kh, sinh ngày 15/6/2003. Nơi đăng ký thường trú: Số 168D đường Ph, ấp H, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới T: Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa (học vấn): 07/12; Con ông Nguyễn Hoài H, sinh năm 1981 (S) và bà Tào Thị Thúy K, sinh năm 1986 (S); Vợ: chưa có vợ; Anh, chị em ruột: có 03 người (lớn nhất là bị cáo; nhỏ nhất sinh năm 2014); tiền án: không; Tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 18/10/2021 sau đó chuyển tạm giam cho đến nay, (bị cáo có mặt).

- Bị hại:

1. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện M.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Trung H, sinh năm 1986 – Phó bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện M – Theo giấy ủy quyền số 01/GUQ- ĐTN ngày 17/3/2022 của Bí thư Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh – huyện M (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Số 145, đường L, ấp Ch, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.

2. Ông Phạm Văn S, sinh năm 1981 (vắng mặt).

Địa chỉ: Số 17/4 Kênh 30/4, khóm 6, phường 6, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

3. Ông Thái Thanh Ph, sinh năm 1972 (vắng mặt).

Địa chỉ: Số 176 L, ấp Ch, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Liễu Minh T, sinh năm 1992 (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp Ch, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.

- Người làm chứng:

1. Ông Lê Văn T1, sinh năm 1985 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp Ch, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.

2. Ông Trịnh Văn L, sinh năm 1987 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp Th, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.

3. Ông Kiều Hoàng U, sinh năm 1991 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp Th, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.

4. Ông Phan Thái B, sinh năm 1994 (vắng mặt).

Địa chỉ: Số 125/10 đường Tr, ấp Ch, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.

5. Ông Phạm Lê Ng, sinh năm 1993 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp H, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Nguyễn Hoàng Kh không có nghề nghiệp ổn định và bị nghiện ma túy. Bị cáo đã 03 lần thực hiện hành vi lén lút lấy trộm tài sản trên khu vực thị trấn M, huyện M để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân, cụ thể:

Vào khoảng 02 giờ ngày 18/10/2021, bị cáo Nguyễn Hoàng Kh mang theo kìm cắt sắt một mình từ nhà bị cáo đi bộ quanh các tuyến đường trong khu vực thị trấn M với ý định tìm tài sản để lấy trộm bán kiếm tiền tiêu xài. Khi đi ngang trụ sở Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện M (Huyện đoàn M) tại số 145, đường L, ấp Ch, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng, bị cáo thấy cửa khóa bên ngoài thì biết là bên trong không có người trông coi, bị cáo đi đến nhìn qua cửa thấy có hai bộ máy vi T để trên bàn, bị cáo dùng kìm cắt sắt mang theo và cắt đứt khoen cửa kéo, rồi tiếp tục cắt đứt ổ khóa cửa nhôm mở cửa đi vào bên trong phòng làm việc. Bị cáo quan sát thấy có hai bộ máy vi T để trên hai bàn làm việc. Bị cáo dùng tay lần lượt rút các dây điện của hai bộ máy vi T ra, lấy một bộ vi T để trên bàn ở phía trong gồm: 01 màn hình, 01 thùng CPU, 01 bàn phím, 01 con chuột bàn phím có dây và lấy 01 con chuột bàn phím của bộ vi T để trên bàn phía ngoài gần cửa. Bị cáo ôm bộ vi T vừa lấy được ra ngoài, đi bộ về nhà. Khi đến cầu bê tông trong hẻm gần nhà thì bị cáo giấu bộ vi T cập bên cầu. Sau đó, bị cáo quay trở lại trụ sở Huyện đoàn M tiếp tục lấy thêm 01 bộ vi T gồm: 01 màn hình, 01 thùng CPU và 01 thùng CPU không gắn dây điện để riêng lẻ trên ghế phía trong; 01 cái điện thoại di động hiệu Nokia E63 loại phím bấm; 01 máy chụp hình kỹ thuật số đem tất cả về nhà để cất giấu. Đến sáng cùng ngày, bị cáo bỏ 01 bộ máy vi T vào balo rồi điện thoại nhờ bạn tên Kiều Hoàng U (tên thường gọi: L) chở bị cáo đến nhà của Lê Văn T1 (tên thường gọi: B) ở ấp Ch, thị trấn M, huyện M để nhờ T tìm người bán giúp bộ vi T với giá 700.000 đồng, T đồng ý và đưa trước cho bị cáo 400.000 đồng, nói khi nào có người mua bộ vi T sẽ đưa thêm cho bị cáo 300.000 đồng còn lại. T đem bộ máy vi T của bị cáo Kh đến gửi cho Trịnh Văn L, nhờ L tìm người bán giúp với giá 700.000 đồng như Kh yêu cầu, nhưng L chưa tìm được người mua. Đến khoảng 07 giờ cùng ngày 18/10/2021, ông Nguyễn Trung H1 đến cơ quan Huyện Đoàn làm việc thì phát hiện bị mất 02 bộ máy vi T cùng các tài sản nêu trên nên đã đến Cơ quan Công an trình báo sự việc. Trong quá trình tiếp nhận tin tố giác và xác minh vụ việc, đến 11 giờ cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện M kiểm tra và phát hiện một số tài sản của cơ quan Huyện đoàn M bị mất trộm còn đang cất giấu tại nhà của bị cáo Kh nên tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với bị cáo Kh để điều tra, làm rõ. Bị cáo Kh thừa nhận đã lấy trộm tài sản của cơ quan Huyện đoàn M như nêu trên.

Quá trình mở rộng điều tra, bị cáo Nguyễn Hoàng Kh tự thú trước ngày lấy trộm tài sản của Cơ quan Huyện đoàn M, bị cáo Kh còn 02 lần lấy trộm tài sản khác, cụ thể:

Lần 1: Vào lúc rạng sáng ngày 04/10/2021, bị cáo Kh mang theo sẵn kìm cắt sắt một mình đi bộ trên các tuyến đường trong thị trấn M để tìm tài sản lấy trộm. Đến khoảng 04 giờ 20 phút cùng ngày, khi bị cáo đi ngang qua trụ sở công ty Sanaco tại số 82B đường L, ấp Ch, thị trấn M, huyện M (do ông Phạm Văn S làm giám đốc) nhìn thấy khóa cửa bên ngoài không có ai trông coi nên bị cáo nảy sinh ý định vào bên trong tìm tài sản lấy trộm. Bị cáo dùng kìm cắt sắt mang theo để cắt ổ khóa nhưng cắt không đứt, bị cáo mới cắt đứt khoen cửa kéo, mở cửa đi vào bên trong và nhìn thấy trên bàn làm việc có 02 bộ máy vi T để bàn, bị cáo tháo dây điện của 02 bộ vi T, ôm 01 bộ mang ra ngoài giấu trong bụi cây cập lộ đal gần đó, rồi quay trở vào lấy bộ vi T còn lại đem ra ngoài. Sau đó, bị cáo đem cả 02 bộ vi T vừa lấy trộm được đem về nhà cất giấu. Đến sáng, bị cáo đem 01 bộ vi T đến nhà của Lê Văn T1 (tên thường gọi: B) nhờ T bán giúp với giá tiền 1.300.000 đồng. Khoảng 02 ngày sau thì T bán bộ vi T trên cho ông Liễu Minh T với giá 1.300.000 đồng và giao đủ số tiền cho bị cáo. Bộ máy vi T còn lại bị cáo đem bán cho ông Phan Thái B, nhưng chưa thỏa thuận giá nên ông B chưa trả tiền.

Lần 2: Vào khoảng 02 giờ sáng ngày 09/10/2021, bị cáo Kh đi một mình trên các tuyến đường trong thị trấn M để tìm tài sản lấy trộm. Khi đi ngang qua nhà của ông Thái Thanh Ph tại số 176 đường L, ấp Ch, thị trấn M, huyện M thì bị cáo có ý định vào bên trong nhà để tìm tài sản lấy trộm nên bị cáo leo qua hàng rào đi vào sân nhà, bị cáo nhìn thấy trong sân có 01 máy bơm nước tăng áp, bị cáo đi đến dùng chìa khóa mở ốc (cờ lê) tháo máy bơm nước ném qua hàng rào. Sau đó, bị cáo leo rào ra ngoài đem máy bơm nước về nhà cất giấu. Khoảng 03, 04 ngày sau bị cáo đem máy bơm nước bán cho ông Phạm Lê Ng (tên thường gọi: B) với số tiền 400.000 đồng.

Về vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện M, tỉnh Sóc Trăng đã thu giữ vật chứng và xử lý bằng hình thức trả cho chủ sở hữu gồm có:

- Thu giữ tại nơi ở của bị cáo Nguyễn Hoàng Kh:

+ 01 bộ máy vi T để bàn, bao gồm: 01 thân máy nhãn hiệu Intel Core 2; 01 màn hình nhãn hiệu Compad F 191; 01 bàn phím nhãn hiệu Logitech và 01 chuột máy T loại có dây nhãn hiệu A4Tech;

+ 01 thân máy (CPU) hiệu Zip FĐ Drive;

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia E63 màu xanh đen, loại có bàn phím bấm;

+ 01 máy chụp hình kỹ thuật số hiệu Canon PC1585 PoWershot A2200 màu xanh.

Sau khi điều tra làm rõ Cơ quan cảnh sát điều tra đã giao trả những tài sản trên cho chủ sơ hữu Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh huyện M, do đại diện hợp pháp là ông Nguyễn Trung H1 nhận.

Vật chứng thu giữ tại nơi ở của bị cáo Nguyễn Hoàng Kh còn đang quản lý lưu giữ tại kho vật chứng gồm:

+ 01 cây kìm cắt sắt màu xanh, có phần cán bằng nhựa màu đen dài 34cm;

+ 01 cây chìa khóa (cờ lê) bằng kim loại dài 14cm, có hai đầu cỡ 13, 14;

+ 01 cây chìa khóa (cờ lê) bằng kim loại dài 17cm, loại vòng miệng cỡ 17.

- Thu giữ vật chứng do ông Trịnh Văn L giao nộp:

+ 01 thân máy nhãn hiệu Deluxe; 01 màn hình nhãn hiệu Asus; 01 bàn phím nhãn hiệu Genius và 01 chuột máy T loại có dây nhãn hiệu Logitech;

- Thu giữ vật chứng do ông Nguyễn Trung H1 (đại diện Huyện đoàn M) giao nộp: 01 ổ khóa bằng kim loại màu bạc kích thước (08 x 5,5)cm đã qua sử dụng, bị rỉ sét và 01 khoen dùng để móc ổ khóa bằng kim loại đã bị cắt làm 02 phần, 01 phần còn chút nước sơn màu xanh, đã bị rỉ sét.

- Thu giữ vật chứng do ông Liễu Minh T giao nộp:

+ 01 bộ máy vi T gồm: 01 thân máy hiệu Jetek; 01 màn hình hiệu LCD Philips, 01 bàn phím và 01 chuột máy T loại có dây cùng nhãn hiệu Logitech.

- Thu giữ vật chứng do ông Phạm Thái B giao nộp:

+ 01 bộ máy vi T gồm: 01 thân máy hiệu Jetek; 01 màn hình hiệu LCD Philips, 01 bàn phím và 01 chuột máy T loại có dây cùng nhãn hiệu Logitech.

Sau khi điều tra làm rõ đã giao trả cho ông Phạm Văn S: 02 bộ máy vi T do ông Liễu Minh T và ông Phạm Thái B giao nộp nêu trên.

- Thu giữ vật chứng do ông Phạm Lê Ng giao nộp: 01 máy bơm nước tăng áp nhãn hiệu NTPHCA225-1.37 màu trắng – xám. Sau khi điều tra làm rõ đã giao trả máy bơm nước nêu trên cho ông Thái Thanh Ph.

- Thu giữ 02 đĩa CD lưu nội dung camera an ninh ghi lại quá trình bị cáo Kh thực hiện hành vi lấy trộm tài sản do các bị hại ông Phạm Văn S và ông Thái Thanh Ph giao nộp, đã được niêm phong đưa vào hồ sơ vụ án.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 44/KL-HĐĐGTS ngày 19/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện M, kết luận:

+ 01 bộ máy vi T để bàn đã qua sử dụng, còn hoạt động, gồm: 01 thân máy nhãn hiệu Intel Core 2; 01 màn hình nhãn hiệu Asus, 01 bàn phím nhãn hiệu Genius và 01 chuột máy T loại có dây nhãn hiệu A4Tech. Có giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là 3.330.000 đồng.

+ 01 bộ máy vi T để bàn đã qua sử dụng, còn hoạt động, gồm: 01 thân máy nhãn hiệu Deluxe; 01 màn hình nhãn hiệu Compad F 191; 01 bàn phím và 01 chuột máy T loại có dây cùng nhãn hiệu Logitech. Có giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là 8.330.000 đồng.

+ 01 thân máy (CPU) hiệu Zip FĐ Drive màu đen, đã qua sử dụng, bị hư hỏng không còn hoạt động. Có giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là 200.000 đồng.

+ 01 máy ảnh kỹ thuật số hiệu Canon PC1585 PoWershot A2200 màu xanh, đã qua sử dụng, còn hoạt động. Có giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là 200.000 đồng.

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia E63 loại bàn phím bấm, màu xanh đen, đã qua sử dụng, còn hoạt động. Có giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là 300.000 đồng.

Tổng giá trị các tài sản qua định giá nêu trên là 12.330.000 đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 47/KL-HĐĐGTS ngày 07/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện M, kết luận: 01 máy bơm nước tăng áp nhãn hiệu NTPHCA225-1.37 màu trắng – xám, được mua mới vào năm 2021. Có giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là 2.660.000 đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 48/KL-HĐĐGTS ngày 08/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện M, kết luận: 02 bộ máy vi T để bàn có cùng chủng loại, đặc điểm gồm: Thân máy nhãn hiệu Jetek; màn hình nhãn hiệu LCD Philips, bàn phím và chuột máy T loại có dây cùng nhãn hiệu Logitech, được mua mới vào tháng 5 năm 2021, còn hoạt động. Có tổng giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là 18.914.000 đồng.

Tổng trị giá tài sản bị cáo Nguyễn Hoàng Kh 03 lần thực hiện hành vi lấy trộm tài sản nêu trên là 33.904.000 đồng. Số tiền mà bị cáo đã hưởng lợi từ việc bán tài sản phạm tội mà có là 2.100.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 07/CT-VKSMX ngày 24 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M, tỉnh Sóc Trăng đã truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng Kh về “Tội trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Hoàng Kh thừa nhận bị cáo đã 03 lần thực hiện hành vi lấy trộm tài sản của người khác trên khu vực thị trấn M, huyện M, cụ thể: Lần thứ nhất: Vào lúc rạng sáng ngày 04/10/2021, bị cáo cắt ổ khóa và khoen cửa vào trụ sở Công ty TNHH Sanaco (tại số 82B đường L, ấp Ch, thị trấn M, huyện M, do ông Phạm Văn S làm giám đốc) lấy trộm 02 bộ vi T để bàn có giá trị qua định giá là 18.914.000 đồng. Lần thứ hai: Vào khoảng 02 giờ ngày 09/10/2021 bị cáo leo hàng rào vào nhà của ông Thái Thanh Ph (tại số 176, đường L, ấp Ch, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng) lấy trộm 01 máy bơm nước tăng áp có giá trị qua định giá là 2.660.000 đồng. Lần thứ ba: Vào khoảng 02 giờ ngày 18/10/2021, tại trụ sở Huyện đoàn M (tại số 145, đường L, ấp Ch, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng) bị cáo lấy trộm 02 bộ máy vi T để bàn; 01 thân máy vi T (CPU); 01 điện thoại di động hiệu Nokia và 01 máy chụp hình hiệu Canon có tổng giá trị qua định giá là 12.330.000 đồng. Số tiền mà bị cáo đã hưởng lợi từ việc bán tài sản phạm tội mà có là 2.100.000 đồng.

Các bị hại ông Phạm Văn S, ông Thái Thanh Ph đều đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm. Đại diện hợp pháp của Huyện đoàn M là ông Lê Trung H (Phó bí thư Huyện đoàn) trình bày: Trong quá trình điều tra ông Nguyễn Trung H1 (Ủy viên Ban thường vụ đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh) - đại diện cho Huyện đoàn M đã nhận lại được tài sản bị mất trộm, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Liễu Minh T đã tự nguyện giao nộp cho cơ quan Cảnh sát điều tra 01 bộ máy vi T đã mua với giá 1.300.000 đồng từ tài sản bị cáo lấy trộm (do Lê Văn T1 bán giúp cho bị cáo Kh), nhưng ông Tân yêu cầu bị cáo hoàn trả lại cho ông 1.300.000 đồng.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M, tỉnh Sóc Trăng giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Hoàng Kh theo như Cáo trạng đã truy tố và đề nghị: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng Kh phạm “Tội trộm cắp tài sản”. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm h, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng Kh từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu và tiêu hủy 01 cây kìm cắt sắt màu xanh có phần cán bằng nhựa màu đen dài 34cm; 01 cây chìa khóa (cờ lê) bằng kim loại dài 14cm có hai đầu cỡ 13, 14; 01 cây chìa khóa (cờ lê) bằng kim loại dài 17cm, loại vòng miệng cỡ 17; 01 ổ khóa bằng kim loại màu bạc kích thước (08 x 5,5) cm đã qua sử dụng, bị rỉ sét và 01 khoen dùng để móc ổ khóa bằng kim loại đã bị cắt làm 02 phần, 01 phần còn chút nước sơn màu xanh, đã bị rỉ sét. Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại ông Phạm Văn S, ông Thái Thanh Ph và đại diện hợp pháp của Huyện đoàn M là ông Lê Trung H đã nhận lại được tài sản bị mất trộm, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên không đặt ra xem xét. Đối với người liên quan ông Liễu Minh T đã tự nguyện giao nộp lại cho Cơ quan điều tra 01 bộ máy vi T đã mua của bị cáo với giá 1.300.000 đồng, ông Tân yêu cầu bị cáo hoàn trả cho ông số tiền 1.300.000 đồng đã bỏ ra để mua tài sản này, cần buộc bị cáo hoàn trả cho ông Liễu Minh T số tiền 1.300.000 đồng. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án tuyên trách nhiệm về án phí theo quy định.

Trong phần lời nói sau cùng của bị cáo: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện M, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện theo quy định pháp luật về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo; bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến, khiếu nại hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy, các hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, các bị hại ông Phạm Văn S, ông Thái Thanh Ph, vắng mặt; đại diện hợp pháp của Huyện đoàn M và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ông Liễu Minh T có đơn xin xét xử vắng mặt; người làm chứng ông ông Lê Văn T1, Trịnh Văn L, Kiều Hoàng U, Phan Thái B và ông Phạm Lê Ng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, nhưng vắng mặt không lý do. Xét thấy, tại giai đoạn điều tra bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và những người làm chứng có tên nêu trên đã có lời khai và những chứng cứ đã thu thập, việc vắng mặt của họ không làm ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án, nên Hội đồng xét xử thống nhất căn cứ khoản 1 Điều 292; khoản 1 Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng nêu trên.

Về nội dung:

[3] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hoàng Kh thừa nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của các bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng và các tình tiết khác của vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Do không có tiền để tiêu xài và mua ma túy sử dụng nên trong tháng 10 năm 2021, bị cáo Kh đã 03 lần thực hiện hành vi lén lút lấy trộm tài sản của người khác đều trong khu vực ấp Ch, thị trấn M, huyện M, cụ thể như sau: Lần thứ nhất: Vào ngày 04/10/2021, bị cáo dùng kềm cắt sắt mang theo lén lút cắt khoen cửa kéo vào nhà của ông Phạm Văn S tại số 82B đường L, ấp Ch, thị trấn M lấy trộm 02 bộ máy vi T để bàn có giá trị qua định giá là 18.914.000 đồng; Lần thứ 2: Vào ngày 09/10/2021, Kh lén lút leo qua hàng rào vào nhà của ông Thái Thanh Ph tại số 176 đường L, ấp Ch, thị trấn M lấy trộm 01 một máy bơm nước tăng áp có giá trị qua định giá là 2.660.000 đồng; Lần thứ 3: Vào ngày 18/10/2021, bị cáo dùng kìm cắt sắt mang theo lén lút cắt khoen cửa kéo và cắt ổ khóa cửa nhôm vào trụ sở Huyện đoàn M trên đường L, ấp Ch, thị trấn M lấy trộm các tài sản của Huyện đoàn M gồm 02 bộ máy vi T để bàn, 01 thân máy vi T (CPU), 01 điện thoại di động hiệu Nokia và 01 máy chụp hình hiệu Canon có tổng giá trị qua định giá là 12.330.000 đồng. Tổng giá trị tài sản mà bị cáo đã lấy trộm của 03 lần như trên là 33.904.000 đồng. Số tiền mà bị cáo đã hưởng lợi từ việc bán tài sản phạm tội mà có là 2.100.000 đồng.

[4] Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Hoàng Kh đủ yếu tố cấu thành “Tội trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng số 07/CT-VKSMX ngày 24 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M, tỉnh Sóc Trăng đã truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng Kh về “Tội trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Xét về hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Hoàng Kh là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đã nhiều lần xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại một cách trái pháp luật. Ngoài ra, hành vi của bị cáo còn gây mất an toàn trật tự xã hội và gây bất ổn an ninh ở địa phương. Do vậy, cần phải xử lý bị cáo nghiêm trước pháp luật, nhằm để răn đe, giáo dục và góp phần phòng chống tội phạm.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở lên theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét bị cáo Nguyễn Hoàng Kh đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, ngoài lần phạm tội bị phát hiện và bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì bị cáo đã tự thú ra những lần phạm tội trước đó chưa bị phát hiện; Tài sản bị cáo lấy trộm đã được thu hồi kịp thời trả lại cho các bị hại nên thuộc trường hợp phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; Về nhân thân, trước khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa từng có tiền án, tiền sự. nên Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ nêu trên cho bị cáo theo quy định tại điểm h, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại ông Phạm Văn S, ông Thái Thanh Ph và đại diện hợp pháp cho Huyện đoàn M là ông Lê Trung H đã nhận lại được tài sản bị mất trộm, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên không đặt ra xem xét. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Liễu Minh T đã tự nguyện giao nộp lại cho Cơ quan điều tra 01 bộ máy vi T đã mua nhưng yêu cầu bị cáo hoàn lại số tiền 1.300.000 đồng đã bỏ ra để mua tài sản này. Tại phiên tòa, bị cáo đồng ý hoàn trả cho ông Liễu Minh T số tiền 1.300.000 đồng nên Hội đồng xét xử thống nhất buộc bị cáo có có nghĩa vụ trả cho ông Liễu Minh T số tiền 1.300.000 đồng Đối với số tiền bị cáo hưởng lợi bất chính từ việc bán tài sản lấy trộm mà có 2.100.000 đồng, cần buộc bị cáo giao nộp, tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

[9] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu và tiêu hủy 01 cây kìm cắt sắt màu xanh có phần cán bằng nhựa màu đen dài 34cm; 01 cây chìa khóa (cờ lê) bằng kim loại dài 14cm có hai đầu cỡ 13, 14; 01 cây chìa khóa (cờ lê) bằng kim loại dài 17cm, loại vòng miệng cỡ 17; 01 ổ khóa bằng kim loại màu bạc kích thước (08 x 5,5) cm đã qua sử dụng, bị rỉ sét và 01 khoen dùng để móc ổ khóa bằng kim loại đã bị cắt làm 02 phần, 01 phần còn chút nước sơn màu xanh, đã bị rỉ sét.

[10] Đối ông Lê Văn T1, ông Trịnh Văn L, ông Liễu Minh T, ông Phạm Lê Ng và ông Phan Thái B là những người đã bán giúp và đã mua các tài sản do bị cáo lấy trộm của người khác, do trong quá trình mua, bán bị cáo Kh không nói tài sản do lấy trộm và những người người này cũng không biết các tài sản trên là do bị cáo Kh phạm tội mà có, đồng thời đã tự nguyện giao nộp lại cho Cơ quan điều tra để trả lại cho các bị hại nên Cơ quan điều tra không đặt ra xem xét xử lý về hình sự là có căn cứ.

[11] Lời đề nghị của vị kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà hôm nay là có căn cứ Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH 

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hoàng Kh phạm “Tội trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm h, r, s khoản 1, 2 Điều 51; khoản 1 Điều 38; điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Áp dụng Điều 584, Điều 586, Điều 589 Bộ luật dân sự.

Tuyên xử:

[1] Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hoàng Kh 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt T từ ngày 18/10/2021.

[2] Về trách nhiệm dân sự:

- Các bị hại ông Phạm Văn S, ông Thái Thanh Ph và đại diện hợp pháp của Đoàn Thanh niên Công sản Hồ Chí Minh huyện M đã nhận lại được tài sản bị mất trộm, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên không đặt ra xem xét.

- Buộc bị cáo Nguyễn Hoàng Kh trả cho ông Liễu Minh T số tiền 1.300.000 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và ông Liễu Minh T có đơn yêu cầu thi hành án mà bị cáo Nguyễn Hoàng Kh chậm trả số tiền nêu trên cho ông Liễu Minh T, thì bị cáo Kh phải trả thêm tiền lãi đối với số tiền trả chậm theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

- Buộc bị cáo Nguyễn Hoàng Kh nộp số tiền 2.100.000 đồng do bị cáo hưởng lợi bất chính từ việc phạm tội mà có, tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

[3] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tịch thu và tiêu hủy: 01 cây kìm cắt sắt màu xanh có phần cán bằng nhựa màu đen dài 34cm; 01 cây chìa khóa (cờ lê) bằng kim loại dài 14cm có hai đầu cỡ 13, 14; 01 cây chìa khóa (cờ lê) bằng kim loại dài 17cm, loại vòng miệng cỡ 17; 01 ổ khóa bằng kim loại màu bạc kích thước (08 x 5,5) cm đã qua sử dụng và bị rỉ sét và 01 khoen dùng để móc ổ khóa bằng kim loại đã bị cắt làm 02 phần, 01 phần còn chút nước sơn màu xanh, đã bị rỉ sét.

[4] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hoàng Kh phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Nộp tại Chi cục Thi hành án huyện M.

[5] Bị cáo; bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (đối với người vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo được T kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại ủy ban nhân dân nơi cư trú) để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 14/2022/HS-ST

Số hiệu:14/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Xuyên - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về