Bản án về tội trộm cắp tài sản số 135/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 135/2021/HS-ST NGÀY 22/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 12 năm 2021 Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 138/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 140/2021/QĐXXST - HS ngày 09 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Lê Đình T, sinh ngày 06 tháng 9 năm 1991 tại thị trấn N, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Khu phố B, thị trấn N, huyện Tr, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Đình T và bà Lê Thị N; có vợ là: Hoàng Thị L và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30 tháng 8 năm 2021 đến ngày 23 tháng 11 năm 2021 được tại ngoại, “có mặt”.

- Bị hại: Công ty TNHH Compal Việt Nam; địa chỉ: Khu công nghiệp Bá Thiện, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc Người đại diện: Ông LI CHIA H – Giám đốc công ty Người đại diện theo ủy quyền: Anh Nguyễn Trung H, sinh năm 1997; địa chỉ: Tổ 16, khu B, phường V, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ (Theo giấy ủy quyền ngày 30 tháng 8 năm 2021) “vắng mặt”.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Hoàng Thị L, sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Lê Đình Tuấ là công nhân bộ phận kho linh kiện điện tử AA8WH của Công ty TNHH Compal Việt Nam, địa chỉ Công ty: Khu công nghiệp Bá Thiện, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc (Tuấn không có trách nhiệm quản lý tài sản trong kho). Quá trình làm việc, phát hiện có sự sơ hở trong công tác quản lý tài sản tại công ty, Tuấn nảy sinh ý định trộm cắp linh kiện điện tử điện thoại của công ty đem ra ngoài bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. Ngày 26 tháng 8 năm 2021, Tuấn làm việc ca đêm từ 20 giờ đến 08 giờ ngày hôm sau nên khoảng 22 giờ ngày 26 tháng 8 năm 2021, lợi dụng thời điểm công nhân nghỉ đi ăn đêm, quan sát trong kho nơi Tuấn làm việc không có người, Tuấn đi đến vị trí kệ để hộp giấy đựng màn hình điện thoại di động, mở hộp giấy lấy 12 chiếc màn hình điện thoại mã 7630000JA00 đúc vào trong túi áo bảo hộ lao động đang mặc trên người rồi đi đến vị trí kệ để hộp đựng ốp điện thoại di động cách vị trí Tuấn vừa lấy trộm khoảng 30 mét, Tuấn trèo lên kệ, dùng tay cạy mở 01 ô trần thạch cao và cất dấu 12 màn hình điện thoại di động vừa lấy được lên trên nóc trần thạch cao, rồi đóng ô trần thạch cao lại như cũ, đợi thời điểm thuận lợi sẽ đem tài sản ra khỏi công ty. Vẫn với phương thức thủ đoạn như vậy, ngày 27 tháng 8 năm 2021, Tuấn lấy 20 khung xương điện thoại mã 25133AJ0V00; 236 chiếc loa điện thoại mã 2250000A000; ngày 28 tháng 8 năm 2021 Tuấn tiếp tục lấy 02 ốp lưng điện thoại mã 251A3AJ2000; 01 túi ni lon màu trắng đựng ốc vít điện thoại mã 2700000I200, bên trong chứa 5000 chiếc ốc vít; 01 túi ni lon màu trắng đựng ốc vít điện thoại mã 2700000HP00, bên trong chứa 5000 chiếc ốc vít và 01 túi ni lon màu trắng đựng ốc vít điện thoại mã 2700000HZ00, bên trong chứa 5000 chiếc ốc vít rồi cất dấu toàn bộ tài sản trộm cắp được lên vị trí trần thạch cao mà Tuấn đã cất giấu màn hình điện thoại trước đó. Đến khoảng 23 giờ 30 phút ngày 28 tháng 8 năm 2021, Tuấn lấy 12 màn hình điện thoại đã trộm cắp cất giấu ở trần thạch cao trước đó đúc vào 2 ống tay áo rồi đi ra khỏi kho linh kiện mục đích để cất giấu tài sản trộm cắp ở tủ đồ cá nhân. Khi đến chốt bảo vệ ở cửa kho linh kiện AA8WH, Tuấn giơ hai tay lên cao, bảo vệ dùng máy quét phần thân người và chân không phát hiện gì nên cho Tuấn ra ngoài, Tuấn đi đến tủ để đồ cá nhân kẹp 12 màn hình điện thoại vào trong 01 túi giấy màu vàng rồi cất vào trong tủ đồ cá nhân của Tuấn, sau đó quay trở lại làm việc. Đến 08 giờ ngày 29 tháng 8 năm 2021, Tuấn tan làm đến tủ để đồ cá nhân lấy túi giấy vàng bên trong cất giấu 12 màn hình điện thoại đem về phòng trọ tại thôn Đông Thành, xã Trung Mỹ, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc cất dấu.

Ngày 30 tháng 8 năm 2021, công ty TNHH Compal Việt Nam tiến hành kiểm kê tài sản phát hiện bị mất trộm tài sản nên đã trình báo Công an huyện Bình Xuyên. Cùng ngày Công an huyện Bình Xuyên đến công ty làm việc, Tuấn biết nên đã ra đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đồng thời Tuấn gọi điện thoại cho vợ là chị Hoàng Thị Lan chỉ chỗ cất dấu tài sản trộm cắp và nhờ mang giao nộp 12 chiếc màn hình điện thoại mã 7630000JA00 và chỉ dẫn vị trí cất dấu các tài sản còn lại trên trần thạch cao trong kho linh kiện AA8WH. Cơ quan điều tra đã tạm giữ: 20 khung xương điện thoại mã 25133AJ0V00; 236 chiếc loa điện thoại mã 2250000A000; 02 ốp lưng điện thoại mã 251A3AJ2000; 01 túi ni lon màu trắng đựng ốc vít điện thoại mã 2700000I200, bên trong chứa 5000 ốc vít; 01 túi ni lon màu trắng đựng ốc vít điện thoại mã 2700000HP00, bên trong chứa 5000 ốc vít và 01 túi ni lon màu trắng đựng ốc vít điện thoại mã 2700000HZ00, bên trong chứa 5000 ốc vít để phục vụ công tác điều tra.

Tại kết luận định trị giá số: 116/KL-HĐĐGTS ngày 08/9/2021, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Bình Xuyên, Kết luận: 236 chiếc loa điện thoại, mã 2250000A000 trị giá 5.149.000 đồng; 20 khung xương điện thoại, mã 25133AJ0V00 trị giá 896.000 đồng; 02 ốp lưng điện thoại, mã 251A3AJ2000 trị giá 812.000 đồng; 01 túi ốc vít điện thoại, mã 2700000I200, bên trong chứa 5000 ốc vít trị giá 1.367.000 đồng; 01 túi ốc vít điện thoại, mã 2700000HP00, bên trong chứa 5000 ốc vít trị giá 1.367.000 đồng; 01 túi ốc vít điện thoại, mã 2700000HZ00, bên trong chứa 5000 ốc vít trị giá 1.320.000 đồng; 12 màn hình điện thoại, mã 7630000JA00 trị giá 8.798.000 đồng. Tổng trị giá tài sản tại thời điểm bị chiếm đoạt là 19.709.000đồng.

Tại Cáo trạng số: 142/CT-VKSBX ngày 23 tháng 11 năm 2021Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên truy tố Lê Đình Tuấ về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên thực hành quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích đánh giá chứng cứ, tính chất nghiêm trọng của vụ án, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Tuấn từ 15 đến 18 tháng tù cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 30 đến 36 tháng.

Ý kiến của những người tham gia tố tụng:

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Đối với Luận tội của Viện kiểm sát bị cáo đồng ý nên không có tranh luận gì. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra đều trình bày và xác nhận: Bị cáo trình bày về việc trộm cắp tài sản của Công ty là đúng. Bị hại đã nhận lại tài sản bị mất nên không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì về phần dân sự; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra đều trình bày và xác nhận: Chị là vợ của bị cáo Tuấn, việc bị cáo Tuấn trộm cắp tài sản của Công ty chị không biết. Ngày 30 tháng 8 năm 2021 chồng chị là bị cáo Tuấn gọi điện thoại cho chị và chỉ cho chị chỗ cất dấu 12 chiếc màn hình điện thoại và nhờ chị mang đến Công ty giao nộp cho cơ quan Điều tra.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Lê Đình Tuấ thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên. Bị cáo khai nhận: Trong thời gian từ ngày 26 tháng 8 năm 2021 đến ngày 28 tháng 8 năm 2021 Lê Đình Tuấ lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của công ty Compal Việt Nam thuộc khu công nghiệp Bá Thiện, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, Tuấn đã liên tiếp lấy 12 chiếc màn hình điện thoại mã 7630000JA00; 20 khung xương điện thoại mã 25133AJ0V00;

236 chiếc loa điện thoại mã 2250000A000; 02 ốp lưng điện thoại mã 251A3AJ2000; 5000 chiếc ốc vít điện thoại mã 2700000I200; 5000 chiếc ốc vít điện thoại mã 2700000HP00 và 5000 chiếc ốc vít điện thoại mã 2700000HZ00 sau đó Tuấn đem cất dấu ở trên trần thạch cao trong kho linh kiện điện tử nơi Tuấn làm việc. Đến sáng ngày 28 tháng 8 năm 2021, Tuấn chuyển được 12 chiếc màn hình điện thoại mã 7630000JA00 ra ngoài công ty mang về nhà cất giấu. Tổng trị giá tài sản Tuấn chiếm đoạt là 19.709.000 đồng. Xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; vật chứng vụ án đã thu giữ…; cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; từ đó có đủ cơ sở để kết luận hành vi của Tuấn đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Nội dung điều luật quy định: “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng ... thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

[3] Xét tính chất vụ án là ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương, bị cáo đã lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của Công ty đã trộm cắp tài sản của Công ty có tổng trị giá 19.709.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, cần phải xử lý bị cáo trước pháp luật mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Sau khi lấy tài sản của Công ty bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là sai, là vi phạm pháp luật nên đã đến Cơ quan điều tra đầu thú và tự nguyện giao nộp tài sản để trả cho bị hại, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng 03 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 và các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Do bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo có nơi cư trú ổn định, rõ ràng nên cần tạo cho bị cáo một cơ hội, không cần bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại trại giam mà cho bị cáo được hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách gấp đôi và giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Cơ quan điều tra đã trả lại cho Công ty TNHH Compal Việt Nam 12 màn hình điện thoại di động mã 7630000JA00; 20 khung xương điện thoại mã 25133AJ0V00; 236 chiếc loa điện thoại mã 2250000A000; 02 ốp lưng điện thoại mã 251A3AJ2000; 5000 ốc vít điện thoại mã 2700000I200; 5000 ốc vít điện thoại mã 2700000HP00 và 5000 ốc vít điện thoại, mã 2700000HZ00. Sau khi nhận lại tài sản Công ty không yêu cầu bị cáo phải bồi thường về phần dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Đình Tuấ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Đình Tuấ 01 năm 03 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm 06 tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Lê Đình Tuấ cho Uỷ ban nhân dân thị trấn Nư, huyện Triệu, tỉnh Thanh Hóa nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Về án phí: Buộc bị cáo Lê Đình Tuấ phải chịu 200.000 đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 135/2021/HS-ST

Số hiệu:135/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về