TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIỄN CHÂU, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 128/2022/HS-ST NGÀY 27/07/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 27 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 71/2022/TLST- HS ngày 22 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 226/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Tạ Đình Q - Tên gọi khác: Không; sinh năm 1989 tại huyện D, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Xóm Z, xã L, huyện D, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tạ Đình H1 và bà Cao Thị L; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân:
- Ngày 15/10/2005 bị Công an huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An xử lý hành chính về hành vi trộm cắp tài sản.
- Ngày 21/5/2006 bị Công an huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An xử lý hành chính về hành vi trộm cắp tài sản.
- Ngày 02/6/2006 bị Công an huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An xử lý hành chính về hành vi trộm cắp tài sản.
- Ngày 16/9/2006 bị Công an huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An xử lý hành chính về hành vi cố ý gây thương tích.
- Ngày 14/02/2007 bị Công an huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An xử lý hành chính về hành vi trộm cắp tài sản.
- Ngày 30/10/2007 bị Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc thời hạn 18 tháng.
- Ngày 21/01/2011, bị Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An xử phạt 07 tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”.
- Ngày 25/4/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
- Ngày 23/3/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An quyết định áp dụng biện đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/02/2022 đến nay (có mặt).
* Người bị hại: Anh Huỳnh Hoàng Da H, sinh ngày 01 tháng 5 năm 2004; trú tại: Xóm X, xã L, huyện D, tỉnh Nghệ An (vắng mặt).
* Người có quyền lợi liên quan: Anh Nguyễn Thế Th, sinh năm 1981; trú tại: Xóm C, xã L1, huyện D, tỉnh Nghệ An (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 14 giờ ngày 08/02/2022, Tạ Đình Q đi đến nhà ông Phan Đức Hồ để dự đám cưới. Khi đi đến nhà ông H thì Q phát hiện có một chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Viet Thai, số loại Wavex, màu sơn đen, biển kiểm soát 37FA-531.46 của anh Huỳnh Hoàng Da H (do bố đẻ là ông H2 sử dụng) đang dựng bên mép đường, chìa khóa cắm ở ổ khóa. Q đi lại gần quan sát thấy không có người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Q lên xe nổ máy điều khiển xe đến nhà anh Nguyễn Thế Th. Khi gặp anh Th, Tạ Đình Q nói với anh Thiêm: “Cho em mượn 4.000.000 đồng, em để lại chiếc xe máy để làm tin, vài ngày em đưa tiền đến trả rồi lấy xe về”; anh Th đồng ý.
Sau khi để lại xe gắn máy trên tại nhà anh Th và nhận số tiền 4.000.000 đồng, Tạ Đình Q đã tiêu xài cá nhân hết.
Ngày 15/02/2022, ông H2 đã gửi đơn trình báo mất tài sản đến Công an huyện Diễn Châu.
Ngày 17/02/2022, Tạ Đình Q đến Công an huyện Diễn Châu để đầu thú.
Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 18/02/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Diễn Châu kết luận: 01 xe gắn máy nhãn hiệu Viet Thai, số loại Wavex, màu sơn đen, biển kiểm soát 37FA-531.46; số khung: RMN1CBBN4MH001103: số máy: VHL139FMBVTE001103, xe đăng ký lần đầu năm 2021, đã qua sử dụng, trị giá 6.500.000 đồng.
Bản cáo trạng số 98/CT-VKSDC ngày 21/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An truy tố Tạ Đình Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Tạ Đình Q về tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử:
+ Về hình phạt chính:
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt Tạ Đình Q từ 12 đến 15 tháng tù.
+ Về hình phạt bổ sung: Đề nghị miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
+ Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải hoàn trả cho người có quyền lợi liên quan số tiền 4.000.000 đồng.
+ Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Bị cáo không tranh luận gì và xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Diễn Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Diễn Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Tại phiên toà, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi của mình phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, nội dung cáo trạng, vật chứng thu giữ được cũng như các chứng cứ, tài liệu điều tra khác. Như vậy đã có đủ căn cứ khẳng định vào khoảng 14 giờ 00 phút ngày 08/02/2022, tại khu vực đường liên thôn thuộc xóm 5, xã Diễn Lợi, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, Tạ Đình Q đã có hành vi lén lút trộm cắp tài sản là 01 chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Vietthai, số loại Waver, màu sơn đen, biển kiểm soát 37FA-531.46, trị giá 6.500.000 đồng của anh Huỳnh Hoàng Da H rồi đem đi cầm cố để lấy tiền tiêu xài cá nhân. Hành vi của Tạ Đình Q đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
[3] Đánh giá nhân thân, tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng rất xấu đến tình hình trật tự trị an, an toàn xã hội, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội một cách táo bạo, liều lĩnh, thể hiện sự coi thường kỷ cương pháp luật. Bị cáo có nhân thân rất xấu, đã nhiều lần bị xử lý hành chính, bị kết án cũng như đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc. Tuy bị cáo đều đã chấp hành xong nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng đạo đức, tham gia lao động sản xuất, cải tạo mình thành người lương thiện mà tiếp tục lao vào con đường phạm tội. Bởi vậy cần phải xét xử nghiêm và cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện để giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung như ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt:
Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
Bị cáo khai báo thành khẩn, biết ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đã ra đầu thú. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự được áp dụng để giảm nhẹ phần nào mức hình phạt cho bị cáo.
[5] Hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung.
[6] Về trách nhiệm dân sự:
Người bị hại đã nhận lại đầy đủ tài sản, không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Anh Nguyễn Thế Th yêu cầu bị cáo phải hoàn trả cho mình số tiền 4.000.000 đồng.
Xét khi cho Tạ Đình Q cầm cố xe để mượn tiền, anh Khiêm không biết đó là tài sản do trộm cắp mà có. Vì vậy cần chấp nhận yêu cầu của anh Khiêm, buộc bị cáo phải trả lại số tiền trên.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào khoản 1 điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Tạ Đình Q 12 (mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 17/02/2022).
3. Trách nhiệm dân sự: căn cứ vào khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự; Điều 166 của Bộ luật dân sự.
Buộc Tạ Đình Q phải trả lại cho anh Nguyễn Thế Th số tiền 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng).
Kể từ ngày anh Th có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong, hàng tháng bị cáo còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
4. Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 200.000 (hai trăm ngàn đồng) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Người bị hại và người có quyền lợi liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
6. Quyền yêu cầu thi hành án: Bị cáo và người có quyền lợi liên quan có quyền thoả thận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 128/2022/HS-ST
Số hiệu: | 128/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Diễn Châu - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về