TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH MIỆN, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 01/2022/HS-ST NGÀY 27/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 27 tháng 01 năm 2022, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Thanh Miện, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ L số: 76/2021/HSST ngày 27 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2022/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:
Nguyễn Đức Tr, sinh ngày 29/11/2004 tại tỉnh Hải Dương. Nơi cư trú: thôn Đ, xã P, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đức H, con bà Nguyễn Thị L;
Tiền án: Không.
Tiền sự:
- Ngày 30/10/2020 bị Công an huyện Thanh Miện xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, phạt Cảnh cáo (Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 156 ngày 30/10/2020);
- Ngày 22/3/2021, bị UBND xã Phạm Kha, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương áp dụng biện pháp giáo dục tại xã trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày 22/3/2021 (Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã số 23 ngày 22/3/2021).
Ngày 16/8/2021, UBND xã Phạm Kha đã ra Quyết định tạm đình chỉ thi hành quyết định đối với Tr.
Bị cáo tại ngoại, Có mặt.
- Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Ông Nguyễn Đức H, sinh năm 1980 và bà Nguyễn Thị Liễu, sinh năm 1984 (bố mẹ đẻ bị cáo) Đều ĐKHKTT và cư trú: Thôn Đ, xã P, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương (ông H vắng mặt, bà Liễu có mặt)
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Văn Đ – Trợ giúp viên Tr tâm trợ giúp pháp L Nhà nước tỉnh Hải Dương, có mặt.
- Đại diện Đoàn Thanh niên xã Phạm Kha. Bà Vũ Thị Đ - Bí thư, có mặt.
* Bị hại:
- Cháu Nguyễn Đức T, sinh ngày 04/5/2011, vắng mặt;
Người đại diện hợp pháp cho cháu T: Anh Nguyễn Đức T2, sinh năm 1986 và Chị Đào Thị Thoảng, sinh năm 1988, vắng mặt;
Đều cư trú: Thôn Đ, xã P, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
Người B vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho cháu T: Bà Nguyễn Thị L - Trợ giúp viên Tr tâm trợ giúp pháp L Nhà nước tỉnh Hải Dương, có mặt.
Đại diện Trường tiểu học xã Phạm Kha: Cô Phạm Thị T - Giáo viên chủ nhiệm lớp 5B (Giáo viên chủ nhiệm lớp cháu T), (vắng mặt);
- Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1955 và Bà Nguyễn Thị L, sinh ngày 1959, ĐKHKTT và cư trú: Thôn Đ, xã P, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương, đều vắng mặt.
* Người làm chứng:
- Cháu Vũ Tuấn K, sinh ngày 27/11/2011.
Người đại diện hợp pháp của cháu K: Anh Vũ Văn M, sinh năm 1990 và chị Bùi Thị Hương, sinh năm 1994 (bố mẹ đẻ).
Trú tại: Thôn Thôn Đ, xã P, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
- Cháu Vũ Thái B, sinh ngày 26/6/2010.
Người đại diện hợp pháp của cháu B: anh Vũ Văn H và chị Nguyễn Thị T (bố mẹ đẻ).
Trú tại: Thôn Thôn Đ, xã P, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
(Người làm chứng đều vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 30/10/2020, Nguyễn Đức Tr bị Công an huyện Thanh Miện xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản bằng hình thức phạt Cảnh cáo, chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính thì từ ngày 24/4/2021 đến ngày 07/8/2021, Tr đã 02 lần trộm cắp tài sản, cụ thể như sau:
Khoảng 10 giờ ngày 24/4/2021, Nguyễn Đức Tr cùng cháu Vũ Thái B - sinh năm 2010, cháu Vũ Tuấn K - sinh năm 2011 và cháu Nguyễn Đức T - sinh năm 2011, đều cư trú tại: thôn Đỗ Hạ, xã Phạm Kha, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương chơi. Tr, B, K và T lên phòng ngủ tầng 2 ngồi chơi với nhau được 1 lúc thì T xuống tầng 1 nấu cơm. Lúc này, Tr nhìn thấy trên mặt kệ kính trong phòng có một con gấu trúc màu trắng, đen bằng sứ dùng để đựng tiền tiết kiệm của cháu T. Thấy không có ai ở nhà nên Tr nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Tr rủ B và K trộm cắp tiền trong gấu trúc, B và K đồng ý. Sau đó, B và K ra đứng ở cầu thang lối đi xuống tầng một cảnh giới. Tr dùng 2 tay cầm con gấu trúc ra sân phơi quần áo tầng 2, đập vỡ gấu trúc. Sau đó Tr lấy toàn bộ số tiền trong gấu cho vào túi quần Tr đang mặc, để mảnh vỡ của con gấu vào góc sân rồi Tr, K, B đi ra sân bóng thôn Đỗ Hạ. Tại sân bóng, Tr đếm số tiền trộm cắp được tại nhà anh T2 là 1.040.000 đồng, lúc này Tr chia cho B số tiền 200.000 đồng, chia cho K số tiền 90.000 đồng, số tiền còn lại Tr cất giữ. Sau khi chia tiền xong thì cả ba quay lại nhà anh T2, K và B đứng ở cổng đợi, Tr một mình đi lên tầng 2 nhặt các mảnh vỡ của con gấu ném xuống vườn sau nhà anh T2 để tránh bị phát hiện. Sau đó, Tr, B và K đi về. Số tiền trộm cắp được, Tr, B và K đã tiêu sài cá nhân hết. Tổng số tiền Tr trộm cắp là 1.040.000 đồng.
Khoảng 18 giờ ngày 07/8/2021, Nguyễn Đức Tr đi bộ từ nhà đến thôn Đỗ Thượng, xã phạm Kha, huyện Thanh Miện nhằm mục đích tìm sơ hở để trộm cắp tài sản lấy tiền chơi điện tử. Khi đến cánh đồng thôn Đỗ Thượng, Tr quan sát thấy 01 xe đạp mini, màu đỏ của ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1955, cư trú tại thôn Đỗ Thượng, xã Phạm Kha, huyện Thanh Miện dựng cạnh lán để đồ của gia đình ông Đ. Quan sát thấy ông Đ đang trồng hành, xung quanh không có người trông coi, Tr đi đến cạnh xe đạp, gạt chân trống rồi ngồi lên xe đi về đình thôn Đỗ Hạ, xã Phạm Kha và cất giấu xe đạp tại vườn phía sau đình. Tr lấy lá cây phủ lên xe đạp để không bị ai phát hiện, sau đó Tr đi bộ về nhà. Đến sáng ngày 08/8/2021, Tr bị Công an xã Phạm Kha triệu tập ra làm việc. Quá trình làm việc, Tr đã khai nhận toàn bộ nội dung phạm tội. Công an xã Phạm Kha đã thu giữ 01 xe đạp mini, màu đỏ ở vườn phía sau đình Đỗ Hạ.
Kết luận định giá tài sản số 09/KL-HĐĐG ngày 10/8/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thanh Miện kết luận: 01 xe đạp màu đỏ, loại xe mini đã qua sử dụng trị giá 200.000 đồng.
Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ 03 mảnh vỡ bằng sứ màu đen trắng không rõ hình dạng.
Tại bản Cáo trạng số 01/CT-VKS ngày 22 tháng 12 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Nguyễn Đức Tr về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương thực hành quyền công tố, trình bày luận tội giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị HĐXX:
Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm b, h, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm i, g khoản 1 Điều 52; Điều 91, Điều 96 Bộ luật Hình sự; khoản 6 Điều 423, Điều 430 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức Tr phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với bị cáo Nguyễn Đức Tr từ 18 đến 21 tháng. Thời hạn tính từ ngày bị cáo được đưa đi trường giáo dưỡng.
+ Về trách nhiệm dân sự: Không phải xử L.
+ Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy 03 mảnh vỡ bằng sứ màu đen trắng không rõ hình dạng.
+ Về án phí: Áp dụng Luật phí và lệ phí số 97 của Quốc Hội; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản L và sử dụng của án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo thuộc diện hộ nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm.
- Người bào chữa cho bị cáo ông Phạm Văn Điều trình bày lời bào chữa, nhất trí với việc truy tố của Viện kiểm sát huyện Thanh Miện và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét điều kiện của bị cáo khi phạm tội là người chưa thành niên, bị cáo đã bị xử L vi phạm hành chính, đề nghị áp dụng điểm b, h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 91, Điều 96 Bộ luật Hình sự; đề nghị không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội đối với người dưới 16 tuổi quy định tại điểm i khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát đề nghị vì theo hướng dẫn tại công văn số 16 ngày 01/02/1999 của Tòa án nhân dân tối cao thì chỉ coi là phạm tội đối với trẻ em đối với người phạm tội trong trường hợp người phạm tội cố ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của trẻ em; đề nghị áp dụng biện pháp tư pháp, đưa bị cáo Tr vào trường giáo dưỡng với thời hạn từ 12 đến 15 tháng; Bị cáo thuộc diện hộ nghèo nên đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Đức Tr khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu ở trên và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Người B vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại là bà Nguyễn Thị Liên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo như nội dung ghi trong đơn xin xét xử vắng mặt của cháu Nguyễn Đức T và anh Nguyễn Đức T2.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định như sau:
[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Miện; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Miện; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, bị hại đều không có ý kiến hoặc kH nại về hành vi, quyết định của Cơ quan T2 hành tố tụng, người T2 hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan T2 hành tố tụng, người T2 hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, do đó có đủ cơ sở xác định:
Ngày 30/10/2020, Nguyễn Đức Tr bị Công an huyện Thanh Miện xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản bằng hình thức phạt Cảnh cáo, chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính thì từ ngày 24/4/2021 đến ngày 07/8/2021, Tr đã 02 lần trộm cắp tài sản, cụ thể như sau:
Khoảng 10 giờ Ngày 24/4/2021, tại phòng ngủ tầng hai của gia đình anh Nguyễn Đức T2 - sinh năm 1986, trú tại thôn Đỗ Hạ, xã Phạm Kha, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương, lợi dụng sơ hở không có người trông coi, Nguyễn Đức Tr cùng với cháu Vũ Thái B - sinh năm 2010, cháu Vũ Tuấn K - sinh năm 2011, đều trú tại thôn Đỗ Hạ, xã Phạm Kha, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương trộm cắp số tiền 1.040.000 đồng của cháu Nguyễn Đức T - sinh năm 2011 (con anh T2) đựng trong con gấu sứ màu đen trắng.
Khoảng 18 giờ ngày 07/8/2021, tại cánh đồng thôn Đỗ Thượng, xã Phạm Kha, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương, lợi dụng sơ hở không có người trông coi, Nguyễn Đức Tr có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 xe đạp mini, màu đỏ của ông Nguyễn Văn Đ- sinh năm 1955, bà Nguyễn Thị L - sinh năm 1959, trú tại thôn Đỗ Thượng, xã Phạm Kha, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương, trị giá 200.000 đồng.
Tổng trị giá tài sản bị chiếm đoạt là 1.240.000 đồng.
[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì mục đích tư lợi, bị cáo đã lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của người quản L tài sản, lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản, chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử L vi phạm hành chính, nay bị cáo lại tiếp tục vi phạm. Như vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn Đức Tr đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Miện truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[4] Xét nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự (TNHS) thì thấy:
Bị cáo không có tiền án;
Về tiền sự: Ngày 30/10/2020 bị Công an huyện Thanh Miện xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, phạt Cảnh cáo (Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 156 ngày 30/10/2020), ngày 22/3/2021, bị UBND xã Phạm Kha, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương áp dụng biện pháp giáo dục tại xã trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày 22/3/2021 (Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã số 23 ngày 22/3/2021). Ngày 16/8/2021, UBND xã Phạm Kha đã ra Quyết định tạm đình chỉ thi hành quyết định đối với Tr;
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Sau khi trộm cắp tiền trong gấu trúc sứ, bị cáo đã tiêu sài cá nhân hết, nhưng sau đó bị cáo cùng các gia đình đã tự nguyện sửa chữa bồi thường thiệt hại cho gia đình cháu T số tiền 1.040.000 đồng, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Tổng trị giá tài sản bị cáo chiếm đoạt trong vụ án này là 1.240.000 đồng (dưới 2.000.000 đồng) nhưng do bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản, chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi phạm, nên các hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo tại nhà anh T2 và của ông Đ bà L đã cấu thành tội Trộm cắp tài sản quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự, nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; gia đình người bị hại (cháu T) xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ Luật Hình sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính thì từ ngày 24/4/2021 đến ngày 07/8/2021, bị cáo đã 02 lần trộm cắp tài sản, nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Theo hướng dẫn tại công văn số 16 ngày 01/02/1999 của Tòa án nhân dân tối cao thì người phạm tội chỉ coi là phạm tội đối với trẻ em trong trường hợp người phạm tội cố ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của trẻ em, nên không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội đối với người dưới 16 tuổi quy định tại điểm i khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.
Xét thấy bị cáo Tr đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã nhưng không có hiệu quả. Theo xác minh tại địa phương và gia đình bị cáo xác định bị cáo thường xuyên lang thang không có công việc ổn định, gia đình và chính quyền địa phương đã giáo dục bị cáo nhưng bị cáo không có T2 bộ, địa phương và gia đình không quản L được, ban chấp hành đoàn thanh niên xã Phạm Kha đã có văn bản đề nghị đưa bị cáo Tr vào trường giáo dưỡng. Tính đến ngày xét xử bị cáo Tr chưa đủ 18 tuổi nên căn cứ vào Điều 91, 96 Bộ luật Hình sự về nguyên tắc xử L người chưa thành niên phạm tội, cần áp dụng biện pháp đưa vào tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ nhằm giáo dục, giúp đỡ bị cáo sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là người chưa thành niên nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản khoản 6 Điều 91 Bộ luật Hình sự.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Ông Nguyễn Văn Đ, bà Nguyễn Thị L đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì. Cháu Nguyễn Đức T và người đại diện hợp pháp của cháu T đã được bồi thường số tiền 1.040.000 đồng. Đối với 01 con gấu sứ đã bị vỡ, gia đình anh T2 không yêu cầu bồi thường. Vì vậy HĐXX không giải quyết.
[7] Về vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại 01 xe đạp mini màu đỏ cho ông Đ bà L là có căn cứ. Đối với 03 mảnh vỡ bằng sứ màu đen, trắng của con gấu tiết kiệm là vật chứng của vụ án, không còn giá trị sử dụng nên cho tịch thu tiêu hủy là phù hợp với quy định của pháp luật.
[8] Cháu Vũ Tuấn K và cháu Vũ Thái B có hành vi cùng với Nguyễn Đức Tr trộm cắp số tiền 1.040.000 đồng trong con gấu trúc bằng sứ tại nhà anh Nguyễn Đức T2, tại thời điểm thực hiện hành vi trộm cắp tài sản K và B chưa đủ 14 tuổi nên Công an huyện Thanh Miện không xem xét xử L là có căn cứ.
[9] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên bị cáo thuộc diện hộ nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
Điểm a khoản 1 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 91; Điều 96; Điều 47 của Bộ luật Hình sự;
Điểm c khoản 2 Điều 106; khoản 6 Điều 423; Điều 430 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH khóa 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản L và sử dụng của án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức Tr phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng đối với bị cáo Nguyễn Đức Tr là 16(mười sáu) tháng, thời hạn tính từ ngày đưa bị cáo đi trường giáo dưỡng.
2. Về vật chứng: Tịch thu cho tiêu hủy 03 mảnh vỡ bằng sứ màu đen, trắng. (Tình trạng vật chứng như trong biên bản giao, nhận vật chứng ngày 27/12/2021 giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Miện và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương).
3. Về án phí: Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, người bào chữa cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết./.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 01/2022/HS-ST
Số hiệu: | 01/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Miện - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/01/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về