TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG KHÁNH, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 115/2022/HS-ST NGÀY 22/11/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 22/11/2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 118/2022/TLST-HS ngày 28/10/2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 118/QĐXXST-HS ngày 09/11/2022 đối với bị cáo:
LÊ M (T) sinh năm: 1997, tại Đ; Nơi cư trú: Ấp H, xã H, thành phố L, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Hoàng Thiên V, sinh năm: 1973; Con bà: Nguyễn Đặng T, sinh năm: 1979; Tiền án không;
Tiền sự: Ngày 13/5/2022, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường X, thành phố L, Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, xâm nhập vào khu vực nhà ở thuộc quản lý của người khác nhằm mục đích trộm cắp, chiếm đoạt tài sản, hình thức phạt tiền 2.500.000 đồng. (đã đóng tiền phạt) Nhân thân:
+ Ngày 30/6/2014, bị Tòa án nhân dân thị xã L (nay là thành phố L), tỉnh Đ xử phạt 06 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 30/12/2014 chấp hành xong án phạt tù. (đã xóa án tích)
+ Ngày 29/02/2016, bị Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh Đ xử phạt 01 năm tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 25/10/2016 chấp hành xong án phạt tù. (đã xóa án tích)
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 14/06/2022, đến ngày 24/06/2022 bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố L. Có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Anh Trần Kim T, sinh năm: 1995 Nơi cư trú: ấp H, xã H, thành phố L, tỉnh Đ. (vắng mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Anh Lê Văn T, sinh năm 2000 Nơi cư trú: ấp H, xã H, thành phố L, tỉnh Đ. (vắng mặt)
+ Anh Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1984 Nơi cư trú: khu phố S, thị trấn L, huyện C, tỉnh Đ. (vắng mặt)
+ Bà Nguyễn Đặng T, sinh năm 1979 Nơi cư trú: ấp H, xã H, thành phố L, tỉnh Đ. (có mặt)
- Người làm chứng:
+ Anh Lưu Tuấn N, sinh năm 1998 (vắng mặt)
+ Anh Nguyễn Quốc S, sinh năm 1996 (vắng mặt)
+ Anh Chí Hy P, sinh năm 1993 (vắng mặt)
+ Anh Đặng Hữu Q, sinh năm 1998 (có mặt)
+ Anh Đặng Hữu Đ, sinh năm 2001 (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lê M có mối quan hệ quen biết với Đặng Hữu V, sinh năm 1996, nơi cư trú: ấp T, xã X, huyện T, tỉnh Đ từ năm 2012 cho đến nay. Do cần tiền tiêu xài cá nhân nên cả hai rủ nhau đi trộm cắp tài sản nhà dân bán lấy tiền tiêu xài.
Sau khi biết nhà anh Trần Kim T, sinh năm 1995 ngụ ấp H, xã H, thành phố L, tỉnh Đ ngay bìa lô cao su trên đường H - X, khóa cửa đi làm cả ngày không có ai trông coi nên V gọi điện thoại rủ Lê M đi trộm cắp tài sản, M đồng ý. Vào khoảng 13 giờ ngày 13/6/2022, M điều khiển xe máy hiệu Satria, biển số 60F3 – xxxxx đến quán cà phê P tại ấp H, xã H, thành phố L để đón V, lúc này V có mang theo một chiếc ba lô màu đen bên trong đựng 01 cái tua vít, M chở V đi đến nhà anh T theo chỉ dẫn của V, khi cách nhà khoảng 100 mét, M đứng ngoài cảnh giới, V lấy trong ba lô ra một chiếc tua vít và leo qua hàng rào lưới B40 vào trong nhà anh T để lấy trộm tài sản. Khoảng 20 phút sau, V leo hàng rào ra ngoài, đưa cho M 01 cái máy tính bảng IPad Pro màu đen và nói với M chờ quay lại lấy hộp vàng bị rơi, M tiếp tục đứng chờ khoảng 05 phút sau thì V quay lại cầm theo 01 hộp đựng vàng màu cam.
Tiếp đó, M chở V đến tiệm vàng K tại ấp T, xã X, huyện C, tỉnh Đ do anh Chí Hy P, sinh năm 1989 làm chủ để bán 02 sợi dây chuyền, 01 đôi bông tai đựng trong hộp màu cam. Sau khi thử phát hiện vàng giả không bán được, M tiếp tục chở V đi bán IPad trộm được, trên đường đi V vứt bỏ số vàng giả ven đường. Sau đó, đưa IPad trộm được đến tiệm điện thoại di động N tại ấp S, xã L, huyện C, tỉnh Đ do anh Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1984 làm chủ, bán được 2.200.000 đồng, V đưa cho M 1.200.000 đồng, còn V giữ 1.000.000 đồng, số tiền trên M đã tiêu xài cá nhân hết. Đến ngày 14/6/2022, Lê M bị Công an mời làm việc, qua làm việc M đã thừa nhận hành vi phạm tội. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L đã thu hồi số tang vật trên của vụ án. Riêng Đặng Hữu V đã bỏ trốn khỏi địa phương cho đến nay nên chưa làm việc được.
Quá trình điều tra, người bị hại là anh Trần Kim T còn khai bị mất thêm 01 nhẫn vàng 24k, trọng lượng 3,5 chỉ và 01 nhẫn vàng 24k, trọng lượng 5 chỉ. Tổng cộng 8,5 chỉ vàng, qua định giá có giá trị 44.200.000 đồng, hiện chưa thu hồi được tang vật, bị can M khai không biết số vàng trên, sau khi trộm được hộp vàng màu cam đi ra thì V tự giữ và tự vào trong tiệm vàng để bán, M chỉ chở V đi đến tiệm vàng bán nhưng do vàng giả nên không bán được. Mặt khác, hiện chưa làm việc được với V nên không có cơ sở xem xét xử lý đối với số vàng bị mất nêu trên.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 33 ngày 20/6/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố L kết luận: Một máy tính Ipad pro thế hệ 3, đã qua sử dụng, đã thu hồi được tang vật (thời điểm ngày 14/6/2022), có giá trị: 10.000.000 đồng.
Tại bản kết luận giám định số 3745/KL-KTHS ngày 27/7/2022, Phân Viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh, kết luận:
+ 02 sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng, tổng khối lượng 31,4193 gam, gửi giám định không tìm thấy thành phần kim loại vàng (Au), Bạc (Ag), có thành phần kim loại chủ yếu là Đồng (Cu): 63,25%, Kẽm (Zn): 35,78%.
+ 01 đôi bông tai bằng kim loại màu vàng có đính hạt đá màu xanh và nhiều hạt đá màu trắng, tổng khối lượng cả hạt: 3,0988 gam, gửi giám định không tìm thấy thành phần kim loại Vàng (Au), Bạc (Ag), có thành phần kim loại chủ yếu là Đồng (Cu): 62,91%, Kẽm (Zn): 24,31%, Niken (Ni): 10,94%.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 47 ngày 12/8/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố L kết luận: 02 sợi dây chuyền, 01 đôi bông tai (kèm kết luận giám định) vàng giả, có thu hồi tang vật. Căn cứ kết luận giám định số 3745/KL-KTHS ngày 27/7/2022, của Phân Viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh thuộc Bộ Công an. Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố thống nhất xác định: 02 sợi dây chuyền; 01 đôi bông tai là vàng giả nên không có giá trị để định giá.
Tại bản cáo trạng số: 101/CT-VKS-HS ngày 24/10/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L đã truy tố bị cáo Lê M về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 – Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê M phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
* Về hình phạt: đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Lê M từ 08 đến 12 tháng.
* Về vật chứng: Đã giải quyết xong nên không xem xét.
* Về dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì đối với Lê M nên không xem xét giải quyết, anh Nguyễn Ngọc H là người mua Ipad của M và V mang đến bán đã được gia đình Lê M bồi thường số tiền 1.200.000 đồng nên không có yêu cầu gì thêm đối với M.
* Lời nói sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để về phụ mẹ, nuôi 03 con nhỏ và hứa sẽ không trộm cắp nữa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội do mình thực hiện như nội dung bản cáo trạng đã nêu, lời khai nhận tội này phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Thể hiện:
Do cần tiền tiêu xài cá nhân nên vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 13/6/2022, lợi dụng nhà anh Trần Kim T tại ấp H, xã H, thành phố L, tỉnh Đ đi làm, không có ai trông coi, Lê M cùng với Đặng Hữu V đã lén lút đột nhập vào nhà lấy trộm 01 máy Ipad pro thế hệ 3, có giá trị tài sản là 10.000.000 đồng của anh Trần Kim T và trộm cắp 02 sợi dây chuyền, 01 đôi bông tai là vàng giả của anh Lê Văn T.
Như vậy, đủ cơ sở kết luận bị cáo Lê M đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 như cáo trạng của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt tù nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[4] Tuy nhiên xét bị cáo thành khẩn khai báo, gia đình bị cáo đã bồi thường thiệt hại nên được xem xét giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Về vật chứng:
- Đối với 01 máy tính Ipad pro thế hệ 3, 02 sợi dây chuyền, 01 đôi bông tai là vàng giả, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp nên không xem xét.
- Đối với 01 xe máy hiệu Satria, biển số 60F3 - xxxx do bà Nguyễn Đặng T là chủ sở hữu. Bà T không biết M sử dụng xe để thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố L đã trả lại cho bà T là phù hợp.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong nên không xem xét.
[7] Đối với đối tượng Đặng Hữu V, hiện đã bỏ đi khỏi địa phương, chưa làm việc được, chỉ có lời khai của M nên chưa đủ căn cứ để khởi tố bị can. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L đã ra Quyết định truy tìm người, khi làm việc được sẽ xem xét xử lý sau.
Đối với hành vi của anh Nguyễn Ngọc H mua điện thoại do M trộm cắp mà có, do anh H không biết đây là tài sản trộm cắp nên không xem xét xử lý.
Ngoài ra, anh Trần Kim T còn khai bị mất thêm 01 nhẫn vàng 24k, trọng lượng 3,5 chỉ và 01 nhẫn vàng 24k, trọng lượng 5 chỉ. Tổng cộng 8,5 chỉ vàng, qua định giá có giá trị 44.200.000 đồng, hiện chưa thu hồi được tang vật, Bị cáo M khai không biết số vàng trên, sau khi trộm được hộp vàng màu cam đi ra thì M chỉ chở V đi đến tiệm vàng bán, V tự giữ và tự vào trong tiệm vàng để bán, nhưng do vàng giả nên không bán được. V không nói cho M biết có trộm được 8,5 chỉ vàng nói trên. Mặt khác, hiện chưa làm việc được với V nên không có cơ sở xem xét xử lý đối với số vàng bị mất nêu trên.
[8] Về án phí: Bị cáo M phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
[9] Xét quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố : bị cáo Lê M (T) phạm tội: “Trộm cắp tài sản”
- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
* Xử phạt : Bị cáo Lê M (T) 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/06/2022.
* Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (bà Nguyễn Đặng T) được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Bản án về tội trộm cắp tài sản (máy tính bảng IPad Pro) số 115/2022/HS-ST
Số hiệu: | 115/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Long Khánh - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/11/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về