Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 97/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 97/2023/HS-PT NGÀY 07/07/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 66/2023/TLPT-HS ngày 12 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo Hồ Thức Đ, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 31/2023/HS-ST ngày 30 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

- Bị cáo có kháng cáo: Hồ Thức Đ, sinh năm 1997 tại Nghệ An; Nơi cư trú: Khu phố 4, phường AT, thành phố PQ, tỉnh Kiên Giang; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 12/12. Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Hồ Thức Tvà bà Chu Thị M; Vợ: Chưa có vợ; Tiền sự, Tiền án: Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/11/2022 đến nay (Có mặt tại phiên tòa).

Ngoài ra trong vụ án còn có bị cáo Chu Văn G do không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 12 giờ 59 phút, ngày 08/11/2022, Chu Văn G đang ở phòng số 2211 khách sạn P do Giang thuê tại khu phố 6, phường T, thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang thì gọi điện thoại cho Hồ Thức Đ hỏi công việc, Đ rủ G sử dụng ma túy tại phòng G đang thuê ở, G đồng ý. Đến khoảng 16 giờ 30 1 phút cùng ngày, G gọi điện thoại cho Nguyễn Thị H rủ đến phòng của G để sử dụng ma túy. Đến 16 giờ 34 phút cùng ngày, Đ gọi điện thoại cho Trần Tiểu L rủ đến phòng của G để sử dụng ma túy, đồng thời Đ gọi điện thoại cho người đàn ông tên D (chưa rõ nhân thân) hỏi mua ma túy, sau đó D đem ma túy lại trước khu vực khách sạn P bán cho Đ 03 viên ma túy với giá 900.000đ.

Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, Đặng Trọng T đến phòng của G chơi, sau đó L đến. Đ mang theo 03 viên ma túy, loa và đèn chớp đi vào phòng của G, lấy 03 viên ma túy chia đều rồi đưa cho G, L và T sử dụng ma túy cùng với Đ. Đến 20 giờ 55 phút cùng ngày, không thấy H, nên Đ tiếp tục gọi điện thoại cho H và gọi rủ Võ Văn H1 đến phòng của G sử dụng ma túy. Đến khoảng 21 giờ 40 phút cùng ngày, Đ tiếp tục gọi điện thoại cho D hỏi mua ma túy, D đem ma túy lại trước khu vực khách sạn P bán cho Đ 03 viên ma túy và 02 bịch ma túy, với giá 2.900.000đ. Đến khoảng 22 giờ 10 phút cùng ngày, H1 và H đến phòng của G, còn Hồ Thức Đức tự đến phòng của G, sau đó Đ đi vào phòng của G đổ 03 viên ma túy và 02 bịch ma túy ra dĩa sứ màu trắng, Đông mở nhạc và lấy tờ tiền mệnh giá 10.000đ làm ống hút, rồi Đ, G, L, T, H, H1 và Đức cùng nhau sử dụng ma túy.

Đến 00 giờ, ngày 09/11/2022, Công an thành phố Phú Quốc kiểm tra phòng số 2211 khách sạn P phát hiện bắt quả tang, thu giữ trên dĩa số ma túy còn lại. Đến ngày 14/11/2022, Hồ Thức Đ và Chu Văn G bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phú Quốc khởi tố, tạm giam để điều tra về hành vi tổ chức sử dụng trái pép chất ma túy.

* Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật:

- 01 bịch nylon màu trắng có rãnh gài viền màu đỏ, kích thước khoảng 4,4cm x 7,4cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể rắn màu trắng, không đồng nhất, được niêm phong.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng, số Imei1: 355325328003563, Imei2: 355325327956241, đã qua sử dụng (tạm giữ của Chu Văn G).

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu xanh ngọc; số Imei1: 357369092165990, Imei2: 357369092048121, vỡ mặt sau, đã qua sử dụng (tạm giữ của Hồ Thức Đ);

- 01 thẻ cà, đã qua sử dụng;

- 01 dĩa sứ màu trắng;

- 01 loa hiệu Herman/Kardon;

- 01 đèn chớp, đã qua sử dụng;

- 01 ống hút, được làm từ tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng.

* Kết luận giám định số: 1104/KL-KTHS ngày 14/11/2022 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Kiên Giang, kết luận: Các hạt tinh thể rắn, màu trắng, không đồng nhất chứa trong 01 bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Ketamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,1168gam.

* Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 31/2023/HS-ST, ngày 30 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang đã quyết định:

- Tuyên bố bị cáo Hồ Thức Đ và Chu Văn G phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 255; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Hồ Thức Đ 07 (bảy) năm tù. Thời điểm chấp hành hình tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 09/11/2022.

- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 255; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Khoản 1 Điều 54; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Chu Văn G 03 (ba) năm tù. Thời điểm chấp hành hình tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 09/11/2022.

Ngoài ra bản án sơ thẩm quyết định về biện pháp tư pháp, án phí và báo quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi tuyên án sơ thẩm, ngày 02/4/2023 bị cáo Hồ Thức Đ có đơn kháng cáo với nội dung xin được giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Hồ Thức Đ vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và cung cấp thêm tài liệu chứng cứ thể hiện có người thân (ông nội và bà nội) là người có công với cách mạng.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang có ý kiến: Kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo Đ không có cơ sở để chấp nhận. Đề nghị căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo:

Xét đơn kháng cáo của bị cáo về nội dung, quyền kháng cáo, thủ tục kháng cáo và thời hạn kháng cáo là đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[2]. Về quyết định của bản án sơ thẩm: Theo chứng cứ có trong hồ sơ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa thể hiện, ngày 08/11/2022, các bị cáo Hồ Thức Đ và Chu Văn G tổ chức cho 5 người khác cùng sử dụng trái phép chất ma túy với 2 bị cáo tại phòng số 2211 khách sạn P do Giang thuê thuộc khu phố 6, phường T, thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang thì bị bắt quả tang. Trong đó, Đ là người đề xướng, rủ rê những người khác đến phòng của G để sử dụng ma túy, Đ cũng là người cung cấp mua ma túy và dụng cụ để cả nhóm cùng sử dụng, đồng thời bản thân Đ cũng sử dụng ma túy chung với họ; G là người dùng nơi ở của mình để làm nơi cho cả nhóm sử dụng ma túy, điện rủ 01 người (H) đến sử dụng ma túy, đồng thời G cũng sử dụng ma túy chung với họ. Do đó, cấp sơ thẩm xét xử, kết luận bị cáo Đ và G thực hiện hành vi phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định.

[3]. Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo Đ:

Theo chứng cứ có trong hồ sơ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa xác định được, bị cáo Đ là người giữ vai trò chính trong vụ án, là người khởi xướng, rủ rê bị cáo G cùng thực hiện hành vi phạm tội với mình, đồng thời cũng là người cung cấp mua ma túy và dụng cụ để cả nhóm cùng sử dụng. Mặt khác, bị cáo tổ chức cho đến 6 người sử dụng trái phép chất ma túy (gồm bị cáo G và 5 người khác). Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt từ 7 đến 15 năm tù, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 7 năm tù mức thấp nhất của khung hình phạt, trong khi bị cáo chỉ có một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là đã xem xét chiếu cố cho bị cáo, không nặng so với tính chất, mức độ phạm tội và vai trò của bị cáo trong vụ án.

Mặc dù trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm bị cáo cung cấp thêm tài liệu chứng cứ thể hiện có người thân (ông nội và bà nội) là người có công với Cách mạng, được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, do bị cáo chỉ có 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên vẫn không đủ điều kiện để có thể áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự, tức dưới 7 năm tù như cấp sơ thẩm đã xử phạt. Do đó, kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo không có cơ sở để chấp nhận.

Từ các phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4]. Xét phần bản án sơ thẩm đã xử đối với bị cáo Chu Văn G:

Bị cáo Gg là đồng phạm tích cực cùng bị cáo Đ trong việc thực hiện hành vi phạm tội, cụ thể bị cáo G là người dùng nơi ở của mình để làm nơi cho 6 người sử dụng trái phép chất ma túy (bị cáo Đ và 5 người khác), trong đó có 01 người do chính bị cáo G rủ đến. Do đó cấp sơ thẩm xét xử bị cáo G về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định.

Theo chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện, bị cáo G chỉ có 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, nhưng cấp sơ thẩm lại áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo G 3 năm tù dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự là không đúng quy định, đồng thời cũng không tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo.

Tuy nhiên, phần quyết định hình phạt của bản án sơ thẩm đối với bị cáo G không bị kháng nghị theo hướng đề nghị tăng hình phạt, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không quyết định sửa bản án sơ thẩm theo hướng bất lợi đối với bị cáo, mà sẽ báo cáo người có thẩm quyền kiến nghị đến Tòa án nhân dân cấp cao; Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xem xét xử lý theo thủ tục giám đốc thẩm.

[5] Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Do kháng cáo của bị cáo Đ không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2023/HS-ST, ngày 30 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hồ Thức Đ, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2023/HS-ST, ngày 30 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

2. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Hồ Thức Đ 07 (bảy) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời điểm chấp hành hình tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ ngày 09/11/2022.

3. Về án phí, căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Bị cáo Hồ Thức Đ phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2023/HS-ST, ngày 30 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

93
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 97/2023/HS-PT

Số hiệu:97/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về